MỤC LỤC Danh mục Trang PhầnI: ĐẶT VẤN ĐỀ 01 I. Lí do chọn đề tài 01 II. Mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu 01 1. Mục tiêu nghiên cứu 02 2. Nhiệm vụ nghiên cứu 02 3. Phương pháp nghiên cứu 02 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 02 PhầnII: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 03 I. Cơ sở lí luận 03 II. Cơ sở thực tiễn 05 III. Các giải pháp thực hiện 06 1. Tích hợp Văn học Việt nam vào các khâu của quá trình dạy học Sinh học THPT 06 2. Xây dựng hệ thống nội dung Văn học có thể tích hợp vào quá trình dạy học Sinh học THPT 10 3. Những chú ý khi tích hợp nội dung Văn học vào quá trình dạy học Sinh học THPT 23 IV. Kết quả nghiên cứu 24 Phần III : KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ 26 I. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm 26 II. Bài học kinh nghiệm 26 III. Kiến nghị 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 PHỤ LỤC 28 Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài Trong Luật Giáo dục (2015), điều 28.2 ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, ban chấp hành trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số: 29-NQ/TW (2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ: mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy học, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo. Trong đó đổi mới phương pháp dạy học được đặt lên hàng đầu và dạy học tích hợp là một xu thế tất yếu để chuẩn bị cho việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới từ năm học 2018 trở đi. Thực tiễn dạy học nhiều năm ở trường phổ thông cho thấy: Đổi mới phương pháp dạy học dù có thể theo các cách thức khác nhau nhưng đều phải “tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” thì khi đó mới gọi là thành công. Văn học với những đặc thù riêng, vừa có giá trị bổ ích, vừa có giá trị hấp dẫn nên việc tích hợp văn học vào dạy học là một trong những phương pháp gây hứng thú học tập bộ môn cho học sinh hết sức hiệu quả. Chính vì vậy, dù có mức độ nhiều ít là khác nhau thì mỗi giáo viên đều sử dụng tích hợp văn học làm “công cụ” cho phương pháp dạy học bộ môn của mình. Tích hợp tục ngữ, thành ngữ và ca dao (một thể loại của văn học dân gian Việt nam) vào dạy học Sinh học THPT, được các đồng nghiệp rất quan tâm trong đổi mới phương pháp dạy học bộ môn và có rất nhiều chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm trên internet. Có chuyên đề đưa ra địa chỉ lồng ghép tục ngữ, thành ngữ và ca dao (dạy ở đâu) chứ chưa đưa ra phương pháp lồng ghép (dạy như thế nào) trong phương pháp dạy học bộ môn. Có chuyên đề đã chỉ ra cách lồng ghép tục ngữ, thành ngữ và ca dao vào dạy học một phần nào đó của chương trình Sinh học THPT. Thực tiễn dạy học Sinh học qua nhiều năm, tôi nhận thấy tích hợp tục ngữ, thành ngữ và ca dao vào dạy học chương trình Sinh học THPT là cần thiết nhưng chưa đủ, vì không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào trong chương trình Sinh học THPT cũng có thể tích hợp tục ngữ, thành ngữ và ca dao được. Tích hợp Văn học Việt nam, bao gồm văn học dân gian và văn học viết với nhiều thể loại khác nhau nhằm tăng phổ tích hợp, tăng tính đa dạng và linh hoạt trong phương pháp dạy học Sinh học; đồng thời làm “mềm hóa” kiến thức Sinh học được xem là một bộ môn khoa học tự nhiên khó hiểu và khô khan, từ đó giúp các em học sinh có sự hứng thú hơn, tích cực hơn trong học tập bộ môn Sinh học. Từ những lí do trên, tôi mạnh dạn viết đề tài “Tích hợp Văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT”. II. Mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu 1. Mục tiêu nghiên cứu - Tích hợp Văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT để khơi gợi cho học sinh niềm hứng thú, say mê trong học tập bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng dạy - học môn Sinh học ở trường THPT. - Giúp các đồng nghiệp tham khảo để có thể vận dụng tốt hơn trong công tác giảng dạy bộ môn Sinh học THPT. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các thể loại văn học Việt nam có thể tích hợp vào dạy học Sinh học THPT. - Nghiên cứu phương pháp tích hợp Văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT. 3. Phương pháp nghiên cứu - Kết hợp giữa phương pháp lí luận và phương pháp phân tích, tổng kết thực tiễn. - Kết hợp giữa phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết và phương pháp thống kê thực nghiệm. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là xây dựng phương pháp tích hợp các thể loại văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT ở các lớp được phân công giảng dạy. - Phạm vi nghiên cứu: áp dụng phương pháp tích hợp Văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT trong các năm học 2014-2015 và 2015-2016. Phần II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận 1. Quan niệm và các phương pháp tích hợp - Quan điểm tiếp cận tích hợp cho phép xem xét các sự vật, hiện tượng trong một cách nhìn tổng thể đang trở thành xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay. Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được nhiều mục tiêu khác nhau. Trong giáo dục, tích hợp kiến thức và dạy học tích hợp là cơ bản nhất. + Tích hợp kiến thức là sự liên kết, kết hợp, lồng ghép tri thức các khoa học khác nhau thành một tập hợp kiến thức thống nhất. + Dạy học tích hợp là quá trình dạy học trong đó có sự lồng ghép, liên hệ những tri thức khoa học, những quy luật chung gần gũi với nhau, qua đó người học không chỉ lĩnh hội được tri thức khoa học của môn học chính mà cả tri thức của khoa học được tích hợp, từ đó hình thành cho người học cách nhìn khái quát hơn đối với các khoa học có cùng đối tượng nghiên cứu, đồng thời có được phương pháp xem xét vấn đề một cách logic, biện chứng. - Theo nhiều tác giả, tích hợp có hai dạng là: lồng ghép và liên hệ. + Dạng lồng ghép: kiến thức của khoa học được tích hợp là kiến thức có sẵn và là một bộ phận cấu thành (một bài học, một mục...) trong bộ môn khoa học chính. Nếu theo cách hiểu này thì chương trình Sinh học THPT hiện tại không có sự tích hợp dạng lồng ghép kiến thức Văn học. + Dạng liên hệ: kiến thức của khoa học được tích hợp không có trong SGK Sinh học rõ ràng như là một bài học, một mục... và nếu chỉ “nhìn bề ngoài” thì chưa có sự liên quan giữa kiến thức Văn học và bài học Sinh học. Nhưng thực tế nhiều nội dung Sinh học ít nhiều có liên quan đến kiến thức Văn học nên nói tích hợp Văn học vào dạy học Sinh học THPT chính là dạng tích hợp này. Tích hợp theo kiểu liên hệ chính là dạy học tích hợp, bởi vì về mặt kiến thức thì kiến thức Văn học không có trong bài Sinh học, nhưng thông qua quá trình dạy học thì giáo viên với “vốn” kiến thức văn học cùng với sự “nhạy cảm” và nhiệt huyết của mình sẽ lựa chọn nội dung kiến thức Văn học, phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài học. 2. Các thể loại Văn học Việt nam có thể tích hợp vào dạy học Sinh học THPT Văn học Việt nam bao gồm các sáng tác ngôn từ với hai bộ phận lớn có quan hệ mật thiết với nhau: văn học dân gian và văn học viết. 2.1. Văn học dân gian Văn học dân gian là các sáng tác tập thể và truyền miệng của nhân dân lao động. Cũng có trường hợp người tri thức tham gia sáng tác văn học dân gian, nhưng các sáng tác đó phải tuân thủ những đặc trưng của văn học dân gian và trở thành tiếng nói tình cảm chung của nhân dân. Văn học dân gian có những đặc tính tiêu biểu: tính truyền miệng, tính tập thể và sự gắn bó với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống. Văn học dân gian có các thể loại chủ yếu: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, thành ngữ, câu đố, ca dao, dân ca, vè, truyện thơ, chèo - Thần thoại: là tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn học của con người thời cổ đại. - Sử thi: là tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn từ có vần, nhịp, xây dựng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại. - Truyền thuyết: là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử), phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. Bên cạnh đó cũng có những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử. - Truyện cổ tích: là tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động. - Truyện ngụ ngôn: là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, thông qua các ẩn dụ (phần lớn là hình tượng loài vật) để kể về những sự việc liên quan đến con người , từ đó nêu lên triết lí nhân sinh quan hoặc những bài học kinh nghiệm về cuộc sống. - Truyện cười: là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán. - Tục ngữ: là những câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn (tự nhiên, lao động, sản xuất, xã hội), thường được dùng trong giao tiếp hằng ngày của nhân dân. - Thành ngữ: là một loại cụm từ cố định, có những đặc điểm riêng về mặt cấu tạo và ý nghĩa. Cụ thể, về cấu tạo, các yếu tố trong thành ngữ có quan hệ chặt chẽ, cố định, tạo thành một khối vững chắc, khó có thể chèn xen một yếu tố khác từ ngoài vào. Về mặt nghĩa, cả thành ngữ tập trung biểu thị một sự vật, hiện tượng, một khái niệm. Nghĩa của thành ngữ là nghĩa chung, nghĩa toàn khối, đồng thời mang tính biểu trưng, tính hình tượng. Nghĩa của thành ngữ được hình thành từ nghĩa đen của từ ngữ tạo thành, nhưng đã chuyển nghĩa (theo cách ẩn dụ hoặc so sánh...) và có tính chất mới (so với nghĩa của từ ngữ tạo thành, các yếu tố cấu thành). - Câu đố: là bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đó bằng ẩn dụ hoặc những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống. - Vè: là tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước mang tính thời sự. - Ca dao, dân ca: là hai khái niệm gần gũi, thường đi với nhau, chỉ các thể loại trữ tình dân gian, trong đó có sự kết hợp giữa lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. Dân ca là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, còn ca dao là lời thơ của dân ca (một thể thơ dân gian). - Chèo: là tác phẩm kịch hát dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội. Ngoài chèo, sân khấu dân gian còn có những hình thức khác như tuồng dân gian, múa rối, các trò diễn mang tính diễn. 2.2. Văn học viết Văn học viết là sáng tác của tri thức, được ghi lại bằng chữ viết, là sáng tạo của cá nhân, tác phẩm văn học viết mang dấu ấn của tác giả. - Văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX: + Văn học chữ Hán: văn xuôi (truyện, kí, tiểu thuyết chương hồi), thơ (thơ cổ phong, thơ Đường luật, ), văn biễn ngẫu. + Văn học chữ Nôm: thơ (Đường luật, truyện thơ, ngâm khúc, hát nói) và văn biền ngẫu. - Văn học từ đầu thế kỉ XX đến nay: tự sự (tiểu thuyết, truyện ngắn, kí), thơ, kịch 3. Chương trình giáo dục phổ thông môn Sinh học cấp THPT 3.1. Vị trí môn học - Sinh học là ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu về sự sống. - Đối tượng của Sinh học là thế giới sống. - Nhiệm vụ của Sinh học là tìm hiểu cấu trúc, cơ chế và bản chất các hiện tượng, quá trình, quan hệ trong thế giới sống với môi trường, phát hiện những quy luật của sinh giới, làm cơ sở cho loài người nhận thức đúng và điều khiển được sự phát triển của sinh vật. 3.2. Cấu trúc nội dung chương trình môn Sinh học THPT Chương trình giáo dục phổ thông môn Sinh học cấp THPT gồm Chương trình Sinh học 10, Chương trình Sinh học 11 và Chương trình Sinh học 12. Chương trình Sinh học 10 đề cập 3 phần: Phần một. Giới thiệu chung về thế giới sống. Phần hai. Sinh học tế bào. Phần ba. Sinh học vi sinh vật. Chương trình Sinh học 11 đề cập tới: Phần bốn. Sinh học cơ thể. Chương trình Sinh học 12 đề cập 3 phần: Phần năm. Di truyền học. Phần sáu. Tiến hóa. Phần bảy. Sinh thái học. Cấu trúc nội dung chương trình được xây dựng theo quan điểm hệ thống và tiến hóa là sợi chỉ hồng để khâu nối các lĩnh vực của Sinh học. II. Cơ sở thực tiễn - Cụ thể nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 29-NQ/TW, chương trình giáo dục phổ thông mới đã lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy. - Văn học và Sinh học là hai lĩnh vực khoa học khác nhau (Khoa học xã hội, khoa học tự nhiên) nhưng đều có điểm chung là phản ánh các hiện tượng của tự nhiên và con người, do đó có nhiều nội dung ở hai lĩnh vực liên quan với nhau. - Văn học được học sinh tiếp xúc, tiếp thu không chỉ ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường mà trong mọi hoạt động thực tiễn cuộc sống hằng ngày của gia đình, cộng đồng dân cư, nhà trường và xã hội nên nếu thực hiện phương pháp dạy học tích hợp Văn học ở các môn học nói chung và môn Sinh học nói riêng thì học sinh sẽ cảm thấy không có gì là bỡ ngỡ. Ví dụ: Rất nhiều câu tục ngữ, thành ngữ mà trong giao tiếp hằng ngày, ai cũng ưa sử dụng vì nó vừa quen thuộc, vừa có “trọng lượng” như là một “chân lí”; hay những lời ru ngọt ngào, da diết của mẹ, của bà thắm đượm chất ca dao, chất dân ca... đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi con người đất Việt. - Thực tiễn dạy học Sinh học THPT cho thấy: môn Sinh học là bộ môn vừa có tính lí thuyết cao, vừa có tính thực nghiệm nên học sinh rất khó tiếp thu và cảm thấy khô khan. Văn học vừa có tính bổ ích, vừa có tính hấp dẫn nên giáo viên nếu biết tích hợp Văn học một cách hợp lí sẽ làm cho bài học trở nên sinh động, khơi gợi được sự hứng thú, say mê học tập bộ môn Sinh học. Đồng thời, qua đó mối quan hệ giữa Văn học và Sinh học cũng được làm rõ và học sinh được hình thành khái niệm mới, chung hơn cho cả Văn học và Sinh học. - Để dạy học tích hợp Văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT đạt hiệu quả cao thì giáo viên không chỉ thành thạo kiến thức, phương pháp giảng dạy bộ môn Sinh học mà điều kiện cần là phải có một “vốn Văn học” nhất định. Tiếp theo đó, điều kiện đủ là khả năng “nhạy cảm” mới có thể nhận ra mối liên hệ giữa nội dung Văn học với nội dung, bài học Sinh học rồi chọn lựa phương pháp dạy học phù hợp với từng nội dung, từng bài học Sinh học. Thực tiễn khi tìm hiểu giáo án, dự giờ, trao đổi phương pháp dạy học với đồng nhiệp trong và ngoài nhà trường qua nhiều năm cho thấy nhiều giáo viên không chú ý áp dụng dạy học tích hợp Văn học vào nội dung, bài học Sinh học đã chứa đựng yếu tố tích hợp. Có rất nhiều lí do, như: chưa tiếp cận nguồn tư liệu Văn học có khả năng tích hợp, đã tiếp cận nguồn tư liệu Văn học nhưng chưa nhận ra khả năng tích hợp, đã tiếp cận nguồn tư liệu Văn học và nhận ra khả năng tích hợp nhưng cho rằng không cần thiết hay sợ mất thời gian... Một số giáo viên đã áp dụng dạy học tích hợp tục ngữ, thành ngữ và ca dao vào nội dung, bài học Sinh học đã chứa đựng yếu tố tích hợp nhưng phổ tích hợp còn ít, nguồn tư liệu Văn học có thể tích hợp trong một số nội dung chưa tối đa, phương pháp tích hợp đơn điệu nên hiệu quả dạy-học chưa cao. Từ những thực tiễn trên, một lần nữa khẳng định việc tích hợp Văn học Việt nam vào dạy học Sinh học THPT sẽ làm cho bài học trở nên sinh động, khơi gợi ở học sinh sự hứng thú, say mê học tập bộ môn Sinh học, tạo tiền đề cho sự thành công của phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. III. Các giải pháp thực hiện 1. Tích hợp Văn học Việt nam vào các khâu của quá trình dạy học Sinh học THPT 1. 1. Tích hợp Văn học Việt nam vào khâu kiểm tra bài cũ Khâu kiểm tra bài cũ thường được giáo viên sử dụng để kiểm tra, đánh giá mức độ nắm bắt của học sinh về một số nội dung bài học trước đó và có thể làm cơ sở để đặt vấn đề vào bài mới. - Ví dụ 1. Trước khi tìm hiểu Bài 4: Đột biến gen (Sinh học 12-Ban cơ bản). Giáo viên có thể kiểm tra nội dung bài học: cơ chế phân tử của hiện tượng di truyền (Bài 2: Phiên mã và dịch mã) bằng cách yêu cầu học sinh giải thích các câu tục ngữ sau về mặt Sinh học: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” hoặc “Giỏ nhà ai, quai nhà nấy”, “ Nòi nào giống nấy”, “ Cha mẹ sinh con, trời sinh tính” - Ví dụ 2. Trước khi tìm hiểu Bài 4: Đột biến gen (Sinh học 12-Ban cơ bản). Giáo viên có thể kiểm tra nội dung bài học: cơ chế phân tử của hiện tượng di truyền (Bài 2: Phiên mã và dịch mã) bằng cách yêu cầu học sinh giải thích 2 câu ca dao (về mặt Sinh học): “Trứng rồng lại nở ra rồng Liu điu lại nở ra dòng liu điu”. Sau đó giáo viên lại yêu cầu học sinh giải thích 2 câu ca dao khác (về mặt Sinh học): “Tưởng rằng rồng nở ra rồng Ai ngờ rồng nở ra dòng liu điu”. Từ hai câu ca dao này, giáo viên đặt vấn đề vào Bài 4: Đột biến gen. Câu hỏi ở khâu này, giáo viên thường hỏi ở mức độ thông hiểu. 1. 2. Tích hợp Văn học Việt nam vào khâu mở bài Khâu mở bài, giáo viên có thể sử dụng nội dung Văn học để tạo không khí hứng khởi cho học sinh tiếp nhận nội dung bài học mới hoặc sử dụng nội dung Văn học để nêu vấn đề định hướng cho bài học. - Ví dụ 1. Khi bắt đầu tìm hiểu Bài 17. Hô hấp ở động vật (Sinh học 11-Ban cơ bản), giáo viên hào hứng lẩy một đoạn Kiều sau: “Trăm năm trong cõi người ta Ai ai mà chả thở ra, thở vào Trăm năm trong cuộc đời nào Người nào mà chả thở vào, thở ra”. Do đó, thầy trò chúng ta cùng tìm hiểu Bài 17. Hô hấp ở động vật trong giờ học hôm nay. - Ví dụ 2. Khi bắt đầu tìm hiểu Bài 12. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen (Sinh học 12-Ban cơ bản), giáo viên đọc câu tục ngữ “ Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” rồi hỏi: Câu hỏi 1. Trong các yếu tố: nước, phân, cần, giống thì những yếu tố nào thuộc yếu tố môi trường bên ngoài? Học sinh. Yếu tố: nước, phân, cần. Câu hỏi 2. Trong các yếu tố: nước, phân, cần, giống thì những yếu tố nào thuộc yếu tố gen hay kiểu gen bên trong? Học sinh. Yếu tố: giống Giáo viên đặt vấn đề: Vậy, mối quan hệ giữa môi trường và gen (hay kiểu gen) như thế nào? Ở khâu này, các câu hỏi dẫn thì giáo viên thường hỏi ở mức độ nhận biết còn câu hỏi nêu vấn đề thì giáo viên thường hỏi ở mức thông hiểu hoặc vận dụng. 1. 3. Tích hợp Văn học Việt nam vào nội dung bài học Tùy theo từng nội dung bài học, tùy theo trình độ của từng học sinh, trình độ của từng nhóm, lớp học sinh mà giáo viên sử dụng câu hỏi có tích hợp nội dung Văn học ở các mức độ khác nhau (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) để phát triển các năng lực cho học sinh. Ví dụ 1. Câu hỏi ở mức độ nhận biết khi tìm hiểu nội dung: Sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường ( Bài 12. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen (Sinh học 12-Ban cơ bản). - Nêu câu tục ngữ gồm 8 chữ có cả yếu tố kiểu gen và yếu tố môi trường? Học sinh. “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” Ví dụ 2. Câu hỏi ở mức độ thông hiểu khi tìm hiểu nội dung: sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường ( Bài 12. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen (Sinh học 12-Ban cơ bản). - Giải thích câu tục ngữ : “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” theo kiến thức Sinh học. Ví dụ 3. Câu hỏi ở mức độ vận dụng thấp khi tìm hiểu nội dung: Sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường ( Bài 12. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen (Sinh học 12-Ban cơ bản). - Chứng minh trong thời đại ngày nay thì yếu tố giống phải đặt lên hàng đầu? Ví dụ 4. Câu hỏi ở mức độ vận dụng cao khi tìm hiểu nội dung: Sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường ( Bài 12. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen (Sinh học 12-Ban cơ bả
Tài liệu đính kèm: