Ôn thi THPT quốc gia môn Lịch sử lớp 12 - Chuyên đề: Công lao của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam

doc 30 trang Người đăng dothuong Lượt xem 802Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn thi THPT quốc gia môn Lịch sử lớp 12 - Chuyên đề: Công lao của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ôn thi THPT quốc gia môn Lịch sử lớp 12 - Chuyên đề: Công lao của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam
CHUYÊN ĐỀ
 CÔNG LAO CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH 
VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1919 - 1945)
PHẦN NỘI DUNG
A. MỤC TIÊU VỀ KIẾN THỨC VÀ KĨ NĂNG 
1. Mục tiêu về kiến thức
Sau bài học, học sinh cần: 
- Hiểu và trình bày được hoàn cảnh dẫn đến việc Nguyễn Tât Thành ra đi tìm đường cứu nước.
	- Trình bày được quá trình lựa chọn và tìm đến con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
	-Đánh giá được công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
	- Phân tích được vai trò của Nguyễn Ái Quốc với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám – 1945.
2. Mục tiêu về kĩ năng
	- Phát triển kĩ năng tổng hợp và hệ thống hoá các sự kiện lịch sử.
 - Phát triển kĩ năng khai thác tư liệu lịch sử.
	- Phát triển kĩ năng đánh giá vai trò của cá nhân với lịch sử.
3. Mục tiêu về thái độ, tư tưởng tình cảm
- Bồi dưỡng về tinh thần yêu nước, lòng kính yêu với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
- Bồi dưỡng tinh thần vươn lên, tự học, tự phấn đấu, hưởng ứng cuộc vận động “Sống và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
4. Định hướng các năng lực hình thành
a. Năng lực chung: năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ.
b. Năng lực chuyên biệt:
- Năng lực tái hiện sự kiện lịch sử về quá trình tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin, quá trình vận động thành lập Đảng và công cuộc chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Ái Quốc.
- Năng lực thực hành bộ môn:khai thác kênh hình có liên quan đến nội dung chuyên đề.
- Năng lực tổng hợp, liên hệ, sâu chuỗi các sự kiện lịch sử, so sánh đối chiếu.
- Nhận xét, đánh giá về công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc với cách mạng Việt Nam (1919-1945).
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ 	
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc Việt Nam
Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Vào đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có nhiều biến động, bức tranh phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc ngày càng được phác họa cơ bản và rõ nét. Sự áp bức và xu hướng thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên rõ rệt. Sự xuất khẩu tư bản vào các nước thuộc địa đã làm cho các dân tộc thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân chủ nghĩa. Cũng từ đó sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh tự giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân tăng lên một cách mạnh mẽ. Việt Nam đã chịu sự tác động của bối cảnh lịch sử đó.
Năm 1858, Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng. Chúng từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hành hoá của chính quốc. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hoá tư tưởng chúng đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc ta.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã tham gia đấu tranh dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức, lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy rằng các phong trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ.
Nguyễn Ái Quốc tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại Làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) đỗ Phó bảng, bị ép ra làm quan, sau bị cách chức, chuyến sang làm nghề thầy thuốc. Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan (1868-1900), một phụ nữ có học, đảm đang, chăm lo cho chồng con hết mực. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên quê hương Nghệ Tĩnh giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, lại lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan nên Người sớm có tinh thần yêu nước. Người rất khâm phục tấm lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của các bậc tiền bối như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Đình Phùng nhưng lại không tán thành với con đường cứu nước của các cụ. Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng tiến bối. Nguyễn Aí Quốc đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước.
 Quá trình tìm đến với chủ nghĩa Mác –Lê nin
Ngày 5/6/1911 tại Bến cảng Nhà Rồng, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tạm rời xa gia đình, xa Tổ quốc để bắt đầu cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên khác với những thanh niên cùng trang lứa đều chọn Nhật Bản làm nơi dừng chân thì Nguyễn Ái Quốc lại hướng tầm nhìn của mình về các nước phương Tây, trong đó có Pháp. Sỡ dĩ Người chọn phương Tây làm nơi đến vì Người muốn tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào để trở về giúp đỡ đồng bào mình, hơn nữa Người cũng muốn biết nước Pháp là một tên đế quốc như thế nào mà lại sang xâm lược nước ta và theo người muốn đánh thắng giặc Pháp xâm lược thì cần phải tìm hiểu rõ về chúng, “ biết địch biết ta trăm trận trăm thắng “ chính vì lý do đó mà người đã quyết định sang phương Tây, sang nước Pháp.
Tại đây, năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ chủ trương chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa. Tháng 6 năm 1919, nhân dịp các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị Vec-xai ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam để tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau: 1. Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị. 2. Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những quyền bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận. 4. Tự do lập hội và hội họp. 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương. 6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. 8 .Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Những yêu sách nói trên không được chấp nhận, nhưng nó đã có ý nghĩa rất lớn. Đó là đòn tấn công trực diện đầu tiên của nhà cách mạng trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc vào bọn trùm đế quốc và nó đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp. Một bài học lớn đã được rút ra: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. 
Tháng 7 năm 1920. Nguyễn Ái Quốc đọc được Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Người vui mừng đến phát khóc lên và muốn nói to lên như đang nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” . Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Từ đó Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin vào Lênin, tin vào Quốc tế thứ ba. 
Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua vào cuối tháng 12 năm 1920 Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Hành động đó của Nguyễn Ái Quốc là sự kiện đánh dấu bước ngoặt lớn trong hoạt động cũng như tư tưởng chính trị của Người, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới, “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng vô sản”, nó đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sau này, chính Người đã thừa nhận: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”
Công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3-2-1930)
Chuẩn bị cho việc thành lập Đảng
Thời gian ở Pháp 
	Từ 1921 Nguyễn Ái Quốc dựa vào sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp đã cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân và thông qua tổ chức này để đem chủ nghĩa Mác – Lênin đến với với các dân tộc thuộc địa. Hội quyết định sáng lập ra tờ báo Le Paria ( Báo Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn luận của mình và ra số đầu tiên vào ngày 1/4/1922, tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc chủ biên kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, đồng thời thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. Ngoài việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc còn tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết và viết nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, tập san Thư tín quốc tếvà viết cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản 1925). Mặc dù nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán nhưng các sách báo đó vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam đúng vào lúc phong trào cách mạng Việt Nam đang phát triển mạnh, đặc biệt bước đầu xuất hiện những xu hướng cộng sản. Nhờ đó nhân dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ ngày càng hiểu hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được Cách mạng tháng Mười Nga và hướng về chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh đó, với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cũng đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các nước thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. 
Thời gian ở Liên Xô:
	Tháng 6/1923 Nguyễn Ái Quốc bí mật rời khỏi nước Pháp và sang Liên Xô. Tháng 10/1923 Nguyễn Ái Quốc tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ I ở Liên Xô và được bầu vào Ban chấp hành, tiếp đó Người vừa hoạt động vừa nghiên cứu, học tập, làm việc ở trụ sở Quốc tế cộng sản (Bộ phương Đông), viết bài cho báo Sự thật, tạp chí Thư tín quốc tế và một số sách báo khácĐặc biệt từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924, Người đã tham dự Đại hội lần thứ V của quốc tế cộng sản.	 
Thời gian ở Trung Quốc
	Sau một thời gian ở Liên Xô để học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảng kiểu mới, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường về tới Quảng Châu. Vào cuối 1924 Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam ở đây, nhất là những thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã để tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925) với nhóm Cộng sản đoàn (được Nguyễn Ái Quốc thành lập tháng 2-1925 trên cơ sở tổ chức Tâm Tâm xã) làm nòng cốt rồi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Người sáng lập tuần báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Sau khi đưa những thanh niên yêu nước Việt Nam vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều khóa huấn luyện chính trị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho cách mạng Việt Nam. Từ 1924 – 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được cử đi học ở trường Đại học Phương Đông (Liên Xô), một số đi học ở các trường quân sự ở Trung Quốc, Liên Xô, còn phần lớn trở về nước hoạt động. Trong đó Người vừa tổ chức lớp học, vừa biên soạn tài liệu giảng dạy, vừa là giáo viên trực tiếp truyền đạt những nội dung học tập. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc về sau được tập hợp trong cuốn Đường kách mệnh (1927). Đây là tài liệu nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, mở đường cho sự du nhập của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự hình thành chính đảng vô sản ở trong nước. Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng cơ bản được nêu lên: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng đông đảo nên phải động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân vùng dậy đánh đổ các giai cấp áp bức, bóc lột; cách mạng phải có đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo; cách mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Mục đích của cuốn sách là để nói cho đồng bào ta biết rõ: “Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh – Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc riêng của một hai người. Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách mệnh thì phải làm thế nào?”. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã có tác dụng tích cực đến phong trào cách mạng trong nước. Từ năm 1926 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng nhiều cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng, số lượng hội viên tăng lên nhanh từ 300 người (1928) lên đến 1700 người (1929). Đến đầu 1929 Hội đã có cơ sở hầu khắp cả nước rồi các tổ chức đoàn thể quần chúng của Hội cũng lần lượt ra đời. Đặc biệt phong trào vô sản hóa của Hội từ 1928 trở đi đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành Đảng cộng sản ở Việt Nam. Đến giữa 1929 nhu cầu thành lập tổ chức cộng sản chín muồi, Tân Việt cách mạng đảng có sự phân hóa và chuyển mình theo khuynh hướng cộng sản. Trước yêu cầu bức thiết của cách mạng. Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập, để rồi từ tháng 6 – 9/1929 lần lượt 3 tổ chức cộng sản nối tiếp nhau xuất hiện là: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn taọ tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam.
	2. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
	Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản vào nửa sau năm 1929 ở Việt Nam lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhưng vì cả 3 tổ chức đều hoạt động riêng lẻ, công kích lẫn nhau, tranh giành địa bàn lẫn nhau nên đã gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Vì vậy, yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả nước để lãnh đạo cách mạng. Được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam diễn ra từ ngày 03 – 07/02/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) Hội nghị gồm có 5 đại biểu, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh), hai đại biểu của An Nam Cộng sản đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc tế cộng sản chủ trì cuộc họp. Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, với uy tín của Người và yêu cầu của cách mạng Việt Nam, các đại biểu tham gia hội nghị đã nhất trí tán thành việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn Aí Quốc soạn thảo. Sau hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24/02/1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn xin gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam và đã được Ban chấp hành Trung Ương lâm thời đồng ý. Như vậy trên thực tế đến ngày 24/02/1930 thì ba tổ chức cộng sản ở nước ta đã được thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản Chính cương vắn tắt Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam “là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
	 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam Sự ra đời của Đảng ngày 3/2/1930 đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước ở Việt Nam trong mấy chục năm qua. Đây là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một thời kỳ đấu tranh mới trong lịch sử dân tộc. Như vậy Nguyễn Ái Quốc là người đã đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng cũng chính Nguyễn Ái Quốc là người đã soạn thảo ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những văn kiện đó được xem là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho con đường cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Vai trò của Hồ Chủ Tịch đối với cách mạng tháng Tám.
Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng
Tháng 2 năm 1941, sau 30 năm bôn ba, Nguyễn Ái Quốc về Cao Bằng, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Người trực tiếp triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941. Tại Hội nghị, Người đã phân tích, nhận định sáng suốt tình hình quốc tế và trong nước, đề ra nhiều chủ trương quan trọng, nổi lên bao trùm xuyên suốt là giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất. Đó chính là sự phát triển hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng do các Hội nghị Trung ương lần 6 (11-1939) và lần 7 (11-1940) của Đảng đề ra.
Hồ Chủ tịch có công lớn trong xây dựng lực lượng cách mạng.
Xây dựng lực lượng chính trị
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Cách mạng muốn thắng lợi phải có đông đảo các giai cấp, tầng lớp tham gia. Cùng với việc mở các lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho nhiều cán bộ cách mạng, Người đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp yêu nước trong xã hội. Đâu đâu cũng phát triển mạnh mẽ các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Việt Minh như: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc Vai trò và sức mạnh to lớn của Mặt trận Việt Minh được phản ánh trong thực tiễn, có sức lôi cuốn hiệu triệu mạnh mẽ quần chúng đứng lên đấu tranh giành độc lập tự do.
Xây dựng lực lượng vũ trang
Cuối năm 1941, Người cho xây dựng thí điểm đội vũ trang ở Cao Bằng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cách mạng, huấn luyện chính trị, quân sự cho các đội tự vệ, du kích ở địa phương, làm liên lạc nối căn cứ của Đảng với miền xuôi. Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ đạo của Người, Đội Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập với nhiệm vụ là hoạt động vũ trang

Tài liệu đính kèm:

  • docON_THPT_QG.doc