Giáo án Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn lớp 10 - Chuyên đề: Lý Luận văn học - Huỳnh Sơn Ca

doc 8 trang Người đăng dothuong Lượt xem 1011Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn lớp 10 - Chuyên đề: Lý Luận văn học - Huỳnh Sơn Ca", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo án Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn lớp 10 - Chuyên đề: Lý Luận văn học - Huỳnh Sơn Ca
Chuyên đề: LÍ LUẬN VĂN HỌC
VĂN HỌC LÀ GÌ?
ĐẶC TRƯNG VĂN HỌC VÀ CHỨC NĂNG VĂN HỌC
(4 tiết)
I. Văn học là gì?
Văn học là một bộ phận quan trọng của văn nghệ. Văn học theo nghĩa rộng là thuật ngữ gọi chung mọi hành vi ngôn ngữ nói - viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Nó bao gồm các tác phẩm mà ngày nay có thể xếp vào loại chính trị, triết học, tôn giáo. Với nghĩa rộng, văn học đồng nghĩa với văn hóa.
 Văn học theo nghĩa hẹp chỉ khái niệm văn hóa - nghệ thuật mà ta quen dùng hiện nay. Nó bao gồm các tác phẩm ngôn từ có tính chất được sáng tác bằng hư cấu, tưởng tượng. Như vậy khi hiểu văn học theo nghĩa hẹp chúng ta đã loại ra ngoài các tác phẩm chính trị, triết học, tôn giáo. Văn học theo nghĩa hẹp chính là văn chương. 
Văn học là một hình thái ý thức xã hội thẩm mĩ, nó bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan điểm, lập trường đối với đời sống. Nhưng văn học không phản ánh hiện thực trong ý nghĩa khách quan, phổ quát của chủng loại, của sự vật như cái giếng, con đường, cái ao.. mà nó quan tâm là một hệ người kết tinh trong sự vật.
Ví dụ: 
- Nói đến mây, văn học không phản ánh nó giống như một hiện tượng địa lí mà nói đến nó như một bộ phận của cuộc sống con người, của thế giới người, mang nội dung quan hệ con người.
Vì mây cho núi lên trời
Vì chưng gió thổi, hoa cười với trăng.
(Ca dao)
- Văn học nói đến hoa không phải với tư cách một bộ phận sinh sản của cây mà nhìn hoa như một người thường, coi hoa là hiện thân của cái đẹp, của sự nảy nở tươi tắn.
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích sáng tác của văn chương, đến vấn đề viết để làm gì, đến ý nghĩa xã hội của nó. Văn học là một hoạt động tinh thần không chỉ của người sáng tạo mà của cả người tiếp nhận, thưởng thức. Nó mang những chức năng có ý nghĩa xã hội rộng lớn bởi chức năng là sự biểu hiện ra bên ngoài các đặc tính của một khách thể nào đó trong một hệ thống các quan hệ nhất định.
Tác phẩm văn học là sự biểu hiện về năng lực, trình độ, phẩm chất tinh thần của chủ thể trong sự sáng tạo , phản ánh hiện thực đời sống khách quan, xã hội, con người, dựng nên hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan à chức năng phản ánh hiện thực.
Văn học là biểu hiện cái quan hệ mang tính người của con người trong quá trình chiếm lĩnh, đồng hóa hiện thực bên ngoài và bên trong nó dưới hình thức nghệ thuật của ngôn từ. Cái quan hệ người ấy trong cuộc sống nhân loại thật phong phú, nhiều cung bậc, hình thái khó đếm bởi sự vận động không ngừng, bất tận.
Văn học giúp người đọc hiểu biết cái nội dung, cái hình thức, cái hay, cái đẹp; giúp họ thư giãn tâm hồn, tạo trạng thái cân bằng tâm lí, tinh thần. à Chức năng thưởng thức, thư giãn, giải trí.
- Văn học giúp người đọc hiểu biết nhiều mặt về đời sống, chịu sự tác động nhiều cung bậc, đa diện vào nhận thức, tư tưởng, tâm lí, tình cảm à văn học trau dồi mặt tình cảm, hiểu biết cho con người.
II. Đặc trưng của văn học
1. Nguồn gốc của văn học
Văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung đều bắt nguồn từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ, nhất là cuộc sống nói chung của con người. Bởi cuộc sống là cái có trước, văn học nghệ thuật là cái có sau. Hiện thực cuộc sống là mảnh đất màu mỡ cho văn học nghệ thuật sinh sôi nảy nở và phát triển, là nguồn sữa vô tận nuôi dưỡng văn học nghệ thuật lớn lên, vươn cành, trĩu quả. Nếu tách rời mảnh đất của cuộc sống, văn học nghệ thuật sẽ khô héo và bật rễ. Goethe, một nhà văn, một nhà tư tưởng Anh từng nói: Đời sống xanh tươi là cội nguồn sâu xa của văn học. Câu nói đó đã phản ánh đầy đủ và rõ ràng nguồn gốc hình thành văn học..
2. Đối tượng nhận thức và phản ánh của văn học
Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống. Chính vì vậy, đối tượng nhận thức và phản ánh của nó cũng chính là cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Chính vì vậy, Beieelinxki đã xác nhận: Tất cả thế giới, tất cả những bông hoa, màu sắc và âm thanh, tất cả những hình thức của tự nhiên và đời sống đều có thể là hiện tượng của thi ca.
Thế giới tự nhiên là vô cùng, vô tận vô thủy vô chung và vì vậy thế giới nghệ thuật cũng vô cùng phong phú. Nhưng mãi mãi con người vẫn là trung tâm của hiện thực vì thế nghệ thuật luôn hướng đến con người. Nếu các nhà khoa học quan tâm đến tự nhiên chủ yếu về bản chất, quy luật vận động thì nhà văn, nhà thơ lại chú trọng đến ý thức, tư tưởng, tình cảm liên quan đến đời sống tinh thần của con người. 
Chẳng hạn, đối với mặt trời, nhà hóa học chú ý đến phản ứng hóa học, nhà vật lý quan tâm đến nhiệt năng, nhà sinh vật quan tâm đến nguồn sáng, còn nhà thơ thì chú ý đến khả năng gây hứng thú, cảm xúc của nó với con người:
Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó trao lời khó trao.
Hay:
Mặt trời là trái tim anh
Mặt trăng vành vạnh là tình của em.
Còn với mưa, nhà khoa học để ý và giải thích là quá trình ngưng tụ hơi nước, gặp lạnh rớt xuống. Nhưng với nhà thơ thì mưa bao giờ cũng mang hồn người:
Nặng lòng xưa hạt mưa đau
Mát lòng nay trận mưa mau quê nhà.
(Tố Hữu)
Hoặc:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn.
(Huy Cận)
Còn với Lê Anh Xuân thì:
Ơi cơn mưa quê hương
Đã ru hồn ta thuở bé
Đã tắm nặng lòng ta tình yêu chớm hé
Nghe tiếng mưa rơi trên tàu chuối bẹ dừa
Thấy mặt trời lên khi tạnh những cơn mưa
Ta yêu quá nhưng lần đầu mới biết
Ta yêu mưa như yêu gì tha thiết.
Và thời tiết ở Trường Sơn đối với nhà văn, nhà thơ cũng khác hẳn với nhà thiên văn, địa lí. Tố Hữu nghĩ về mưa- nắng Trường Sơn như sau:
Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình.
Còn Phạm Tiến Duật thì:
Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt mối riêng tư.
Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà M.Gorki lại khẳng định: Văn học là nhân học. Văn học là môn học về con người. Đọc những tác phẩm văn học ta sẽ thấy được những quan niệm về cuộc sống, những tư tưởng, tình cảm,.. từ đó hiểu thêm về con người. Nhờ đặc trưng này mà văn học có tính nhân bản.
3. Văn học biểu hiện thái độ chủ quan của tác giả
Trong văn chương, người nghê sĩ không chỉ phản ánh, tái hiện cuộc sống mà còn bày tỏ quan điểm, thái độ của mình về cuộc sống. Qua hình tượng được xây dựng, nhà văn bày tỏ thái độ phẫn nộ, căm thù trước biểu hiện xấu xa vô nhân đạo, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, ca ngợi tình thương, lòng nhân đạo, Người nghệ sĩ chân chính luôn hướng đến cái CHÂN – THIỆN – MĨ của cuộc sống. Vì vậy, khi độc giả tiếp nhận tác phẩm văn chương bao giờ lí trí cũng được mở rộng, nâng cao. 
Ví dụ: Trong Truyện Kiều, chúng ta cảm nhận được sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du trước số phận bất hạnh, nỗi bạc mệnh của người con gái tài hoa là Thúy Kiều trước xã hội phong kiến xưa. Cũng qua tác phẩm, độc giả cảm nhận được thái độ đả kích, phê phán mạnh mẽ của nhà văn trước những thế lực xấu xa chà đạp con người. Đó chính là thế lực đồng tiền, thế lực nhà chứa, giai cấp quan lại, Còn ở Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc, Chí Phèo của Nam Cao, độc giả cảm nhận được thái độ châm biếm, đả kích mạnh mẽ và sự phê phán của tác giả trước xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám đã vùi dập và chà đạp nhân phẩm con người, tước đoạt cả nhân hình, nhân tính, biến con người trở thành con quỷ dữ, thậm chí tước đoạt cả quyền được sống của họ.
4. Văn học - nghệ thuật nhận thức và phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật
Nếu nhà văn không xây dựng được hình tượng thì tác phẩm của anh ta sẽ rơi vào lí thuyết khô khan, trừu tượng. Trường Chinh đã có một sự so sánh thú vị:
Không long lanh hình tượng
Chắp cánh ước mơ
Thì thơ đó chỉ thua vè một chút.
(Vè là loại văn vần dùng để minh họa chủ trương, đường lối).
Vậy, hình tượng là gì? Tất cả các đối tượng của đời sống được tái hiện một cách sáng tạo trong tác phẩm văn học đều là hình tượng. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên, cảnh lao động chiến đấu,..
Ví dụ: Câu ca dao :
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày 
tái hiện khung cảnh lao động của người dân lao động. 
Hay những câu thơ của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
 đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống.
Tuy nhiên, trong những hình tượng mà văn học – nghệ thuật phản ánh thì hình tượng quan trọng nhất là hình tượng con người. Đó là Tấm, Thạch Sanh, trong truyện cổ tích, Thúy Kiều, Từ Hải, Tú Bà, trong thơ trung đại, là Tnú, chị Út Tịch, chị Sứ, trong tác phẩm văn học hiện đại,
Hình tượng văn học có thể là những con vật mang tính tâm linh, tập thể con người, hình tượng thiên nhiên, đất nước,mà thông qua hình tượng nghệ thuật đó, con người có xúc cảm mạnh mẽ, hơn. Chính những hình tượng nghệ thuật đó tạo cho người đọc sự tưởng tượng phong phú. Ví dụ đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố, trong đầu óc độc giả hiện lên cảnh làng Đông Xá của Chị Dậu thúc thuế, anh Dậu bị trói, Chị Dậu đánh lại tên cai lệ, cái Tí ở đợ cho nhà Nghị Quế, Đọc Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, người đọc liên tưởng đến khung cảnh dân làng Xô-man quây quần bên bếp lửa trong nhà rông để nghe cụ Mết kể chuyện Tnú, hình ảnh mười ngón tay của Tnú bị đốt cháy bừng bừng bằng nhựa xà nu nhưng vẫn không kêu than, thấy những lần Tnú đưa thư liên lạc phải lội qua những con suối nước chảy cuồn cuộn để tránh sự phục kích của địch,
Tóm lại: Hình tượng là những bức vẽ về cuộc đời và con người, cụ thể được nhà văn sáng tạo qua liên tưởng, tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và khái quát hiện thực.
5. Văn học nghệ thuật mang tính biểu cảm, tính xúc động
Nhà văn, nhà thơ sáng tạo tác phẩm văn học bằng các giác quan của mình vì họ nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Và người đọc khi tiếp nhận tác phẩm văn chương cũng phải vận dụng hết các giác quan của mình để thưởng thức.
Những câu thơ sau đây bắt chúng ta phải dùng thị giác để tiếp nhận màu sắc, hình khối của thiên nhiên:
Xập xè én liệng tầng không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Hay:
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh.
Còn đây là những câu thơ buộc chúng ta phải dùng vị giác để thưởng thức:
Em ạ! Cu-ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương
Cam ngon, xoài ngọt vàng nông trại
Ong lạc đường bay rộn bốn phương.
(Cu-ba – Tố Hữu)
Hay: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. (Xuân Diệu)
Và những câu thơ phải cảm nhận bằng thính giác:
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Hoặc:
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền mà nước mắt như mưa
Hay:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ.
Và phải dùng cả xúc giác để cảm nhận: Đã nghe rét mướt luồn trong gió. (Xuân Diệu)
	Từ tác phẩm nghệ thuật, người đọc lại thấy được cảm xúc cho riêng mình ở nhiều góc độ. Vì vậy, cái gốc của văn học chính là tình cảm. Văn chương còn có khả năng lây lan cảm xúc từ nhà văn, nhà thơ (nói chung là tác giả) đến người đọc, người nghe (nói chung là độc giả). Nó khiến cho độc giả cũng có cảm giác vui, buồn, yêu, ghét, tự hào, căm phẩn, giống như tác giả đối với vấn đề được nói tới.
Ví dụ, những câu thơ của Hoàng Cầm trong bài thơ Bên kia sông Đuống hay những câu thơ của bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi khiến ta có cảm giắc căm thù giặc xâm lăng đến tột độ:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn.
Ruộng ta khô, nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn lưỡi dài lê sắt máu.
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa đôi ngã.
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
(Bên kia sông Đuống- Hoàng Cẩm)
Và : 
Bên Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
(Chạy giặc – Nguyễn Đình Chiểu)
Và đây :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
(Đại cáo bình Ngô- Nguyễn Trãi)
Hay những câu thơ của thi sĩ Đỗ Trung Quân trong bài thơ Quê hương làm ta thêm yêu quý và gắn bó với mãnh đất gắn bó máu xương, nơi chôn nhau cắt rốn, với những điều đơn sơ giản dị nhất đối với mỗi con người :
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay,...
Những câu thơ trong bài thơ Vội vàng như thúc giục chúng ta cũng vội vàng, cuống quýt muốn tận hưởng trọn vẹn hương sắc của cuộc đời giống như Xuân Diệu:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết
Mây đưa và gió lượn
Ta muốn say
Cánh bướm với tình yêu.....
Và đau cả nỗi đau của tác giả :
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
(Hoàng Cầm)
Hoặc :
Cháu buốt ở trong tim này
Nơi tang đeo suốt đêm ngày Bác ơi !
(Trần Đăng Khoa)
Vì lẽ đó, nhà thơ Bạch Cư Dị- một nhà thơ lớn đời Đường từng nhận xét: Đối với thơ, tình là gốc, lời là cành, thành là hoa, nghĩa là quả.
6. Văn học nghệ thuật phải mang tính độc đáo, mới mẻ
Văn học phải là một hành động sáng tạo không ngừng nghỉ, không lặp lại những cái người khác đã nói, đã làm. Nhà văn Nam Cao đã mượn lời nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa để thể hiện đặc trưng này của văn chương : Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo vài kiểu mẫu đưa sẵn. Văn chương chỉ dung nạp cho những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Mỗi nhà văn là một bông hoa mang hương sắc riêng biệt, mỗi nhà văn phải có ý thức làm mới mình, tạo cho mình một nét riêng, nét mới đó khiến họ không dễ nhằm lẫn với những người khác. Điều đó làm cho văn học nghệ thuật luôn mới mẻ, độc đáo. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tạo được ấn tượng riêng cho mình nhờ phong cách ngông, cái ngông đó là cơ sở để ông không ngừng tìm kiếm cái mới mẻ, cái độc đáo, thay đổi khẩu vị liên tục cho độc giả.
 	Nói tóm lại là sự độc đáo, mới mẻ vốn có ở văn học nghệ thuật là do sự sáng tạo, khả năng sáng tạo và niềm đam mê tìm tòi của tất cả những con người làm công việc nghệ thuật. Sự độc đáo, mới mẻ đã làm nên phong cách của các tác giả. Chỉ xét ngay ở phong trào Thơ mới 1932- 19945 chúng ta thấy : Chưa bao giờ thấy xuất hiện một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.
7. Văn học nghệ thuật mang đậm tính dân tộc
Một tác phẩm hay là một tác phẩm vượt trên bờ cõi, vượt qua biên giới, là tác phẩm chung cho cả loài người- nói như nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao. Tuy nhiên, tác phẩm đó lại không thể không mang dấu ấn của xã hội, lịch sử, thời đại của họ.
Ví dụ: Tác phẩm Truyện Kiều mang đậm dấu ấn của xã hộ phong kiến Việt nam thời suy tàn, Tắt đèn, Lão Hạc, Chí Phèo, mang dấu ấn của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, Chiến tranh hòa bình cuat L.Tônxtoi phản ánh đầy đủ lối sống của giai cấp quý tộc Nga,
8. Văn học – một loại hình nghệ thuật ngôn từ
Ngôn từ là chất liệu duy nhất của văn chương, dùng để xây dựng hình tượng. Đây là đặc điểm cơ bản nhất và dễ thấy nhất khi so sánh văn chương với những loại hình nghệ thuật khác: Âm nhạc, Mĩ Thuật, Điêu khắc,Không có ngôn từ thì không có văn chương. Ngôn từ là phương tiện chính để văn chương biểu đạt ý tưởng. Không dùng đường nét, màu sắc như hội họa nhưng văn chương cũng có thể phác họa lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, khúc khuỷu, hiểm trở với hiểm nguy rình rập:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút vồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.
Chỉ với màu trắng, văn chương có thể vẽ nên một bức tranh chất chứa nỗi xót xa mà không bức họa nào có thể vẽ nên được:
Một chiếc xe tang màu trắng đục
Hai con ngựa trắng quấn song đôi
Mang đi một chiếc quan tài trắng
Với những vòng hoa trắng lạnh người
Theo vết chân nàng khăn áo trắng
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.
(Viếng hồn trinh nữ- Nguyễn Bính).
Cũng với màu trắng, Nguyễn Duy lại vẽ nên một bức tranh mang tâm trạng khác:
Bên ni Cửa Tùng mênh mông cát trắng
Bên tê Cửa tùng cát trắng mênh mông
Cát trắng bên ni sao trắng lạnh, trắng lùng
Trắng đất, trắng tay, trắng một vùng đai trắng.
(Cát trắng)
Có nhà hội họa hay nhà điêu khắc nào có thể vẽ được tư thế của Mã Giám sinh khi đến hỏi mua Kiều tài tình cho bằng Nguyễn Du?
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
Nguyễn Du đã giết chết nhân vật này chỉ bằng một chữ tót.
Vì tất cả những lẽ đó, Bieelinxki đã nhận định: Nhà thơ là người nghệ sĩ của từ.
II. Chức năng của văn học
	Có rất nhiều ý kiến khác nhau khi xác định chức năng của văn học. Quan niệm truyền thống cho rằng văn học có 3 chức năng cơ bản: nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ. Lại có người cho rằng văn học có 4 chức năng: ngoài chức năng trên còn có thêm chức năng giao tiếp. Cũng có người cho rằng văn học có đến 6 chức năng: ngoài 4 chức năng vừa kể còn có thêm chức năng giải trí và thanh lọc. Thậm chí có người lại cho rằng văn học có đến 24 chức năng.
Vậy, thực chất văn học có bao nhiêu chức năng? Muốn trả lời câu hỏi này thì cần phải hiểu rõ chức năng của văn học là gì? Chức năng của văn học là khái niệm xác định vai trò và ý nghĩa của văn học đối với đời sống xã hội. Vì vậy nên đặt văn học trong mối quan hệ phong phú giữa con người với hiện thực đời sống. Tránh hạ thấp vai trò của văn học, xem văn học thuần túy là công việc nhàn rỗi, là trò mua vui giải trí tầm thường.
	Ba chức năng chủ yếu của văn học mà tất cả đều đồng tình đó là: 
1. Chức năng nhận thức
Có người cho rằng, văn học là tấm gương phản ánh cuộc đời và nhà văn chính là thư kí trung thành của thời đại. Làm được như vậy thì nhà văn phải có hiểu biết để nhận thức, để khám phá và để sáng tạo. Tất cả những hiểu biết đó được nhà văn nhào nặn, gọt giũa, đem vào tác phẩm của mình. Và khi độc giả tiếp nhận, họ sẽ có thêm kiến thức đa dạng về cuộc sống: từ kinh tế, xã hội đến lịch sử, văn hóa, chính trị, Điều đó lí giải vì sao nhà phê bình văn học người Nga lại cho rằng Văn học là cuốn sách giáo khoa về đời sống. 
2. Chức năng giáo dục
Văn học là nhân học
Văn chương có chức năng làm thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, quan điểm, nhận thức của con người theo chiều hướng tiến bộ hoặc cách mạng, giúp cho con người từ chỗ tán thành đến hành động theo lí tưởng nhân vật hoặc lí tưởng tác giả. Hoặc bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động và hấp dẫn, tác giả giúp con người phân biệt được tốt - xấu, đúng - sai, từ đó liên hệ đến mình và xác định cho mình một thái độ một lập trường nhất định. Chẳng hạn với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khơi dậy ở người đọc ước mơ về tự do, công lí. Hình tượng Thúy Kiều giáo dục lòng hiếu nghĩa với cha mẹ, lòng chung thủy vợ chồng và nhân cách, phẩm giá của con người. Với Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Còn với Người mẹ của M.Gorki, Lê-nin cho rằng đây là một quyển sách kịp thời bởi vì chính tác phẩm đã có sức mạnh cải tạo tinh thần, tư tưởng cho công nhân Nga lúc bấy giờ. Theo lời của M.Gorki, nhiều công nhân đã tham gia cách mạng một cách vô ý thức và tự phát, và bây giờ họ đọc Người mẹ, điều đó có lợi cho chính bản thân họ.
3. Chức năng thẩm mĩ của văn chương
	Chức năng thẩm mĩ của văn chương bộc lộ ở chỗ: làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ, phát triển năng lực, thị hiếu thẩm mĩ của con người. Cũng tức là, nghệ thuật làm thỏa mãn nhu cầu về lí tưởng, ước mơ, sự hoàn thiện hoàn mĩ của con người trước thế giới. Nghệ thuật thực hiện chức năng thẩm mĩ bằng nhiều cách. Trước hết là làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc bằng việc miêu tả và phản ánh cái đẹp trong tự nhiên và xã hội. Cái đẹp là cái khả năng đưa đến cho người ta một khoái cảm, một thích thú, một niềm xúc động khi con người nhìn thấy hoặc thưởng thức. Văn học rèn luyện năng lực thẩm mĩ cho con người, làm cho cảm xúc con người càng tinh tế, nhạy bén hơn. Nó hình thành ở con người một nhận thức sâu sắc hơn về cái đẹp. Chẳng hạn khi nói đến sen, nếu nhìn ở ngoài đời ta chưa thấy hết cái đẹp của nó. Nhưng khi nhìn nó trong nghệ thuật ta mới thấy hết cái đẹp của nó. Đẹp từ màu sắc, hương vị, hình thức, phẩm chất. 
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
	Giải thích cái đẹp trong nghệ thuật có phần duy tâm, nhưng Hégel đã khẳng định: Ngay bây giờ chúng ta có thể khẳng định rằng cái đẹp tr

Tài liệu đính kèm:

  • docBoi_duong_HSG_chuyen_de_li_luan_van_hoc.doc