Đề tài Vai trò của nguyễn ái quốc- Hồ chí minh đối với lịch sử dân tộc Việt Nam từ năm 1911 đến năm 1945

doc 6 trang Người đăng TRANG HA Lượt xem 8002Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Vai trò của nguyễn ái quốc- Hồ chí minh đối với lịch sử dân tộc Việt Nam từ năm 1911 đến năm 1945", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài Vai trò của nguyễn ái quốc- Hồ chí minh đối với lịch sử dân tộc Việt Nam từ năm 1911 đến năm 1945
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM TỪ NĂM 1911 ĐẾN NĂM 1945
 Th.S Lê Đăng Thành
 THPT Chuyên Vĩnh Phúc
Như chúng ta đã biết, quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử song cá nhân kiệt xuất lại giữ vai trò quan trọng, đôi khi giữ vai trò quyết định, nhất là ở những bước ngoặt của Lịch Sử. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1911 đến năm 1946 là một minh chứng điển hình về vai trò của cá nhân kiệt xuất trong Lịch Sử.
1. Nguyễn Ái Quốc là người đã xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam (1911-1920)
a. Bối cảnh và yêu cầu lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam không chỉ bị bóc lột về kinh tế, mà còn phải chịu nỗi nhục mất nước. Độc lập tự do là khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phản động tay sai. Nhiệm vụ cứu nước được đặt ra vô cùng cấp thiết.
Trước yêu cầu của lịch sử cuối thế kỉ XIX, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp đã nổ ra song bị đàn áp đẫm máu..., con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ phong kiến đã bị thất bại. Đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước tiếp thu trào lưu tư tưởng mới, tiến hành cuộc vận động cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản..., nhưng cũng không thành công. Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối. 
Tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng không tán thành con đường của họ, nên quyết định tìm con đường cứu nước mới.
Được tiếp xúc với văn minh Pháp, Nguyễn Tất Thành quyết định sang phương Tây để tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào, giải phóng dân tộc. 
b. Xác định một con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam- con đường cách mạng vô sản
Trước yêu cầu của lịch sử, từ năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, hướng tới phương Tây, đến nước Pháp; rồi qua nhiều nước, nhiều châu lục khác nhau. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man.
Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pari; viết báo, truyền đơn, tham gia các buổi mít tinh...; gia nhập Đảng Xã hội Pháp (1919). 
Tháng 6 - 1919, Người gửi đến Hội nghị Vecxai Bản yêu sách của nhân dân An Nam, đòi thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7 năm 1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Tháng 12 - 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (Đại hội Tua), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Như vậy sau khoảng 10 năm tìm đường cứu nước (1911-1920), Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và xác định con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản, mở đường để giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước đầu thế kỷ XX. 
2. Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá lý luận cách mạng, chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của một Đảng Cộng sản ở Việt Nam (1921-1929)
a. Truyền bá lý luận cách mạng và chuẩn bị điều kiện về tư tưởng chính trị
- Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng và truyền bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam.
- Nội dung lý luận đó được trình bày qua những bài viết cho các báo: Người cùng khổ (Le Paria) của Hội Liên hiệp thuộc địa; Nhân đạo của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống công nhân của Tổng liên đoàn Lao động Pháp; Sự thật của Đảng cộng sản Liên Xô; Tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản; tuần báo Thanh niên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Những tham luận của Người đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và nhất là tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt qua tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường Kách mệnh.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc là ánh sáng soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời, là sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng, đồng thời đặt cơ sở để hình thanh nên cương lĩnh chính trị của Đảng sau này.
b. Chuẩn bị điều kiện về tổ chức
- Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người tìm hiểu tổ chức Tâm tâm xã, chọn một số thanh niên tích cực thành lập Cộng sản đoàn (2-1925). Tháng 6-1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội. Đây là một tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, một tổ chức quá độ để tiến lên thành lập Đảng, một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Hội có hệ thống tổ chức chặt chẽ, từ cơ quan lãnh đạo cao nhất là Tổng bộ đến chi bộ. Đến năm 1929, Hội có khoảng 1700 hội viên.
- Mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào tạo một đội ngũ cán bộ. Từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã đào tạo được 75 người, đa số là thanh niên, học sinh, trí thức yêu nước. Họ "học làm cách mạng, học hoạt động bí mật", rồi bí mật về nước hoạt động, tuyên truyền lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân. Một số sang học trường Đại học Phương Đông Matxcơva (Liên Xô), hoặc vào trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản không ngừng phát triển. Đến năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.
Yêu cầu trên tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam vào cuối năm 1929 là một xu thế khách của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân đang trở thành một lực lượng chính trị độc lập ngày càng lớn mạnh đi đầu trên trận tuyến đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai ở nước ta. Là bước chuẩn bị trực tiếp về mặt tổ chức tiến tới thành lập một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Thể hiện sự thắng thế của khuynh hướng vô sản trong phong trào cách mạng ở nước ta.
3. Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)
- Chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng: khi nhận được tin Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phân liệt thành hai nhóm cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã rời Xiêm sang Trung Quốc; chủ động triệu tập đại biểu của Đông dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng để bàn về việc thống nhất đảng. Hội nghị bắt đầu họp ngày 6-1-1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước.
- Với uy tín tuyệt đối, Nguyễn Ái Quốc đã đưa Hội nghị đến thành công, thống nhất được các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam.
Soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, bao gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua. Đó là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo. Độc lập, tự do là tư tưởng chủ yếu của Cương lĩnh.
Với việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng cách mạng có hệ thống tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc có vai trò quyết định trong việc chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. 
4. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh Vai trò đối với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945
a. Xác định đường lối và phương pháp cách mạng
	Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước đầu năm 1941 (28-1-1941) Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian chuẩn bị, Ngưởi đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 5 1941 tại Pác Bó (Hà Quảng- Cao Bằng) giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đồng thời đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang.
	b. Sáng lập mặt trận Việt Minh- thực lực chính trị cơ bản của cách mạng tháng 8
	Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập mặt trận Việt Minh với các hội cứu quốc , xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; tập hợp và rèn luyện lực lượng chính trị quần chúng.
	c. Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng
	Người đã chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa, chỉ thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc
	d. Đánh giá, chớp đúng thời cơ, lãnh đạo thắng lợi Tổng khởi nghĩa tháng 8 -1945
	Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí minh đã đánh giá chính xác thời cơ, chớp đúng thời cơ, kiên quyết phát động và lãnh đạo nhân dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945).
	Từ sự phân tích, đánh giá ở trên cho thấy Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh là người đã xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam- con đường cách mạng vô sản. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh còn là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình.

Tài liệu đính kèm:

  • docChuyen_de_HSG_Su_Vai_tro_cua_Nguyen_Ai_Quoc.doc