øng dùng c«ng nghÖ th«ng tin trong d¹y häc ©m nh¹c líp 5 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Khác với hội hoạ và điêu khắc, những môn nghệ thuật tạo hình có khả năng tạo nên những hình dáng cụ thể để khắc hoạ cuộc sống, âm nhạc thuộc loại nghệ thuật biểu hiện, không “vẽ ”nên cuộc sống mà dùng âm thanh để biểu hiện tư tưởng, tình cảm của con người trước cuộc sống và cảnh vật. Là một ngôn ngữ biểu hiện bằng âm thanh, âm nhạc có những nét gần gũi với ngôn ngữ nói như âm điệu, tức độ cao thấp, mạnh nhẹ của âm thanh. Với giai điệu tiết tấu và tốc độ khác nhau, âm nhạc thể hiện các tâm trạng, tình cảm khác nhau trong cuộc sống. Nhạc sĩ thiên tài Nga Trai- cốp- xki đã nói một câu bất hủ “ Âm nhạc bắt đầu từ chỗ ngôn từ kết thúc”. Quả thật vậy về phương diện cảm xúc, âm nhạc diễn tả những sắc thái vô cùng tinh tế mà bất cứ loại nghệ thuật nào cũng khó sánh kịp, với đặc thù của ngôn ngữ đa thanh có nhiều âm thanh phát ra cùng một lúc, âm nhạc có thể miêu tả nhiều cảm xúc đan xen nhau. Trong những năm gần đây việc ứng dụng CNTT đã rất phổ biến ở Việt Nam. Cùng với sự đi lên của xã hội, ngành giáo dục đã mạnh dạn đưa ứng dụng CNTT vào dạy học. CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung và phương pháp dạy học. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Hơn nữa, CNTT là phương tiện để giúp chúng ta tiến tới một “ xã hội học tập”. Bởi vậy, trong năm học này, ngành giáo dục đã xác định phải đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong trường học để tạo bước đột phá trong giáo dục và tạo tiền đề phát triển CNTT trong những năm tiếp theo. Bản thân là một giáo viên dạy âm nhạc, tôi cũng hoà mình vào guồng quay đó. Tôi đã sử dụng phần mềm Power Point, phần mềm soạn nhạc Encore 4.5 vào các tiết dạy: Kể chuyện âm nhạc, học hát, tập đọc nhạc, nghe nhạc kết hợp với các nhạc cụ khác: đàn, bộ gõ, băng đĩatạo không khí học tập thoải mái cho học sinh. Giúp cho học sinh phát triển khả năng âm nhạc tích cực, chủ động, giờ học diễn ra nhẹ nhàng đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học chúng tôi cũng gặp những khó khăn nhất định. Cho đến thời điểm hiện tại, nhìn chung chất lượng dạy học Âm nhạc còn nhiều hạn chế. Chất lượng học sinh năng khiếu về âm nhạc còn thấp do chưa được phát hiện đào tạo và bồi dưỡng đúng mức. Nguyên nhân dẫn đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy Âm nhạc chưa thật hiệu quả. Đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa Tiểu học và đổi mới phương pháp dạy môn Âm nhạc cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, chương trình mới là một vấn đề mà bản thân tôi thực sự yêu thích và say mê nghiên cứu. Từ những lý do khách quan và chủ quan trên, tôi đã đi sâu tìm hiểu về đổi mới phương pháp dạy Âm nhạc ở trường Tiểu học. Trong phạm vi đề tài này tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu vấn đề “ứng dụng công nghệ thông tin vào môn âm nhạc lớp 5”. Tôi hi vọng đề tài sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong quá trình dạy học Âm nhạc, đề xuất một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc lớp 5 và các lớp khác trong trường tiểu học 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nâng cao hiệu quả của việc dạy học Âm Nhạc 5. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu các vấn đề lý luận về dạy Âm nhạc Điều tra thực trạng hoạt động dạy học phân môn Âm nhạc lớp 5 ở trường Tiểu học Thanh Tân - Kiến Xương - Thái Bình. Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi nhằm đổi mới phương pháp dạy học, đưa công nghệ thông tin vào dạy học Âm nhạc lớp 5 trường Tiểu học Thanh Tân - Kiến Xương - Thái Bình. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới phương pháp dạy học Âm nhạc lớp 5 ở trường Tiểu học Thanh Tân - Kiến Xương - Thái Bình. 4.2. Phạm vị nghiên cứu: Đề tài triển khai nghiên cứu ở trường Tiểu học Thanh Tân - Kiến Xương - Thái Bình nên những biện pháp mà chúng tôi đề xuất chưa mang tính khái quát để có thể áp dụng ở các trường Tiểu học. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng các biện pháp mà đề tài đề xuất có thể áp dụng ở tất cả các trường Tiểu học có hoàn cảnh tương tự. 5. Phương pháp nghiên cứu. Trong bài tập khoa học của mình, để thực hiện mục đích nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Sưu tầm và nghiên cứu các văn bản, các tài liệu khoa học liên quan đến đề tài, tài liệu về tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học, nghiên cứu sách giáo khoa, sách gíao viên môn Âm nhạc ở Tiểu học và các tài liệu khác... 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp quan sát, phân tích. - Phương pháp toạ đàm trao đổi trực tiếp - Phương pháp điều tra, phỏng vấn. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm - Phương pháp chuyên gia. 5.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ khác. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu . B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Quan niệm về CNTT trong dạy học Phương tiện dạy học được định nghĩa “là tập hợp những đối tượng vật chất được người dạy sử dụng với tư cách là những đối tượng tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học, là phương tiện nhận thức của người học. Các phương tiện dạy hiện đại quan trọng nhất gồm nhưng phương tiện nghe nhìn, là sản phẩm của nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một số phương tiện dạy học hiện đại được dùng trong dạy học là máy tính, các loại máy chiếu, và các loại băng đĩa CD,VCD. Công nghệ thông tin được định nghĩa trong Nghị quyết 49/CP ngày 04/8/1993 “là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động con người và xã hội. Sử dụng công nghệ thông tin, người giáo viên sẽ có chứa đựng lượng thông tin phong phú, sinh động là tiên đề của các tiết dạy tốt. Trong dạy học Âm nhạc, công nghệ thông tin có thể sử dụng ở tất cả các bước lên lớp, các dạng bài của môn học.ứng dụng công nghệ thông tin đúng lúc, đúng nơi sẽ giúp cho học sinh có khả năng quan sát, ghi nhớ, trình bày vấn đề,. Với một máy chiếu, đàn, micro sẽ không quá khó để tạo sự tự tin cho học sinh và tạo thành công cho tiết dạy. 2. Vai trò, mục tiêu của âm nhạc đối với HS tiểu học. 2.1. Vai trò của âm nhạc đối với học sinh tiểu học Âm nhạc có một vị trí to lớn trong nhà trường, góp phần giáo dục tình cảm đạo đức, hình thành nhân cách trẻ em . Ngoài ra, qua các giờ học hát nghe nhạc và hoạt động ngoại khoá, âm nhạc mang cho các em tính lạc quan, tích cực, sự hoạt bát , lanh lợi, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể đặc biệt thông qua các yếu tố cơ bản của ngôn ngữ âm nhạc (giai điệu, tiết tấu, hoà âm cường độ, âm sắc, nhịp độ .... ) học sinh được bồi dưỡng về khả năng trí tuệ, tính nhạy cảm, trí thông minh sáng tạo, khả năng tư duy trừu tượng , trí nhớ, sự tưởng tượng, tính chính xác khoa học. Mặt khác âm nhạc còn hỗ trợ việc học tập các môn học khác được tốt hơn và qua các hoạt động âm nhạc trong phổ thông, tạo điều kiện cho các học sinh có năng khiếu nổi trội được phát hiện và bồi dưỡng phát triển bước đầu tạo nguồn cho các trường đào tạo chuyên nghiệp để có những nghệ sĩ tài năng cho đất nước. 2. 2. Mục tiêu của giảng dạy âm nhạc ở trường Tiểu học. Dạy môn âm nhạc không nhằm đào tạo các em thành những người hành nghề âm nhạc mà mục đích chính là thông qua môn học để tác động vào đời sống tinh thần của các em góp phần cùng các môn học khác thực hiện mục tiêu của nhà trường phổ thông và mục tiêu cấp học. Hình thành và phát triển năng lực cảm thụ của học sinh, tạo cho các em một trình độ văn hoá âm nhạc nhất định góp phần giáo dục toàn diện và hài hoà nhân cách. Rèn luyện một số kỹ năng đơn giản về ca hát và tập đọc nhạc, bước đầu biết hát diễn cảm. Khích lệ học sinh hăng hái tham gia hoạt động âm nhạc. Làm cho đời sống tinh thần phong phú lành mạnh tạo điều kiện cho các em bộc lộ rõ và phát triển năng khiếu. 3. Đặc điểm khả năng âm nhạc của học sinh Tiểu học. Nhìn chung học sinh tiểu học ham thích hoạt động âm nhạc, vui chơi, ham hiểu biết. Tuy vật hứng thú tự nhiên của các em còn thiếu bền vững, chóng chán. Sự thay đổi các dạng hoạt động trong tiết học, các bài tập, tìm tòi sáng tạo để nắm vững kiến thức, kỹ năng hoạt động âm nhạc quy định trong chương trình là rất cần thiết. Tầm cữ giọng còn hẹp nằm trong khoảng quãng 6, 7 tối đa là quãng tám. Âm sắc chưa có sự phân chia giới tính. Số đông học sinh hiếu động, nghịch ngợm, hồn nhiên. Nhưng lại có những em rụt rè, ít cởi mở, thiếu tự tin. Tìm hiểu phân lọai học sinh để xây dung các thủ pháp giúp các em thêm chủ động. Trong quá trình dạy học động viên và khen ngợi các em đúng lúc luôn là điều rất cần thiết. Cần tạo được không khí hoạt động nghệ thuật chung cho cả lớp, kích thích các em thêm tự tin, tích cực tham gia các hoạt động. Giờ học âm nhạc trong nhà trường nói chung, ở Tiểu học nói riêng đặc trưng bởi không khí tự nhiên, phải bằng chíng ngôn ngữ tình cảm của âm nhạc làm cho trẻ xúc động, gơi cho trẻ những tâm trạng nhất định. Học sinh Tiểu học có thể tiếp thu một cách nghiêm túc nhứng kiến thức, kỹ năng âm nhạc, những xúc cảm về cái đẹp trong nghệ thuật. Trong quá trình tiếp xúc với âm nhạc các em sẽ thêm hiểu về cái đẹp của cuộc sống xung quanh, khơi gợi niềm tin vào cái tốt và sự công bằng. Đặc điểm giọng hát của học sinh Tiểu học : Chia làm 4 giai đoạn - Giai đoạn 1 : Các em ở nhà trẻ, mẫu giáo. Giọng hát các em còn thanh mảnh. Khi hát thanh đới chỉ rung ở phần ngoài, không rung toàn phần cho nên âm thanh nhỏ, yếu, các cơ bắp hô hấp chưa phát triển. - Giai đọan 2 : Trước lúc vỡ giọng ( từ 7 - 13 tuổi ) Bộ máy phát âm phát triển chậmcho đến 10 tuổi, dung lượng khí trong phổi các em nam nữ là như nhau. Hơi thở ngày càng sâu hơn nhưng âm vực của nam và nữ vẫn giống nhau. - Giai đoạn 3 : Giai đoạn vỡ giọng ( khoảng từ 13 - 15 tuổi ) Các bộ phận của máy phát âm đã phát triển nhưng không đồng đều. Từ 14 tuổi dung lượng khí oxi trong phổi của các em trai lớn hơn em gái. Thanh quản của các em trai vào thời kỳ này phát triển nhanh hơn các em gái. Những bộ phận khác của máy phát thanh ( phổi, khí quản, vòm mồm, vòm mũi và các xoang ở mũi, trán.. ) cũng dần phát triển những khó nhận thấy. Vào giai đoạn này nếu được hướng dẫn một cách chu đáo sẽ giúp phát triển hài hoà bộ máy phát thanh. - Giai đọan 4 : sau vữ giọng Giọng hát của các em dần yếu đi, bộ mấy phát thanh dễ bị tổn thương cho đến khi nào tất cả các bộ phận của nó đạt đến mức phát triển đều cả về hình thức lẫn chức năng, sự tương quan giữa các bộ phận tức là cho đến khi bước vào tuổi vị thành niên. Giọng hát của các em học sinh Tiểu học được xếp vào giai đoạn 2 và chia làm hai loại cơ bản - Giọng thấp. - Giọng cao. Về phẩm chất giọng có thể chia thành các loại sau : - Giọng vang, sáng, khoẻ. - Giọng vang, êm nhẹ, có nhạc cảm, sâu sắc. - Giọng tối, mờ nhỏ hay rung. - Giọng rè, khàn, kém chuẩn xác. Lọai đầu nếu được rèn luyện tốt có thể trở thành đơn ca, lĩnh xướng các loại sau phù hợp với yêu cầu hát tập thể. Riêng giọng thứ tư là khó khăntuỳ tình hình mà có hướng dẫn sát hơn để có thể hoà vào việc giáo dục thẩm mỹ. Một nhược điểm chung là trước khi các em bước vào trường còn chưa biết hát là gì và nếu có hát thì hoàn toàn theo bản năng nên nhiều em hát bằng giọng mũi, cổ do đó dẫn đến sự sai lệch cần phải được quan tâm sửa chữa. Tầm cữ giọng của các em : Tầm cữ chung là : Giọng cao : Giọng thấp : Giọng các em HS lớp 1,2 : Giọng các em lớp 3,4,5. 4. Đặc điểm cơ bản của chương trình âm nhạc lớp 5 - Lớp 5 môn âm nhạc được coi là độc lập trong số 9 môn bắt buộc ở tiểu học. Môn học được thực hiện mỗi tuần 1 tiết / 35 tuần. - Mục tiêu môn học âm nhạc lớp 5 là tạo nên một trình độ văn hoá âm nhạc nhất định cho học sinh tiểu học. Bước đầu hình thành cho các em một số kỹ năng cơ bản về ca hát, nghe nhạc, giáo dục năng lực cảm thụ âm nhạc, kích thích tiềm năng nghệ thuật làm cho đời sống của trẻ thêm phong phú. Phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tìng cảm trong sáng, lành mạnh, hướng tới cái tốt, cái đẹp. Góp phần làm thư giãn đầu óc của trẻ, làm cân bằng các nội dung học tập khác ở trường tiểu học. 1.2. Nội dung chương trình âm nhạc ở lớp 5 bao gồm: a. Tập hát : Củng cố, ôn tập một số bài hát đã học ( Quốc ca, bài hát thiếu nhi). Học 10 bài hát ngắn trong đó chọn 1- 2 bài hát dân ca VN. 1 bài hát nước ngoài tầm cữ giọng không quá quãng 9 ( có thể lướt qua quãng 10 ) Củng cố các kỹ năng như : tư thế, cách thở, lấy hơi, giữ hơi, tập phát âm rõ lời, tập hát diễn cảm giọng hát cá nhân hoà cùng giọng hát tập thể. Tập hát cá nhân để rèn tính mạnh dạn, tự tin. - Chủ điểm : Các bài hát về quê hương, đất nước, hoà bình hữu nghị, truyền thống dân tộc gia đình, nhà trường, các sinh hoạt của tuổi học sinh, thiếu nhi. - Thể loại : Các bài hát gồm các ca khúc thiếu nhi ca khúc quần chúng, dân ca Việt nam và ca khúc nước ngoài. b. Phát triển khả năng nghe nhạc : Giới thiệu hình dáng một vài nhạc cụ phương tây phổ biến. Giới thiệu và nghe 4- 5 bài gồm dân ca, ca khúc mới. Qua một số tác phẩm giới thiệu một số nhạc sĩ nổi tiếng trong nước và thế giới. Đọc 2 truyện kể âm nhạc. Phát triển khả năng nghe nhạc quy định dạy những nội dung : Nghe một số bài hát, đọc một số chuyện kể về âm nhạc với đời sống, tập nhận biết hướng đi của âm thanh phân biệt âm thanh cao thấp dài ngắn với các tốc độ khác nhau. Nhận biết một số loại nhạc cụ dân tộc và phương tây phổ biến. c. Tập đọc nhạc : Làm quen với các bài tập đọc nhạc nhịp 2/4, 4/4. Trong đó có sử dụng thêm hình nốt tròn, đen chấm dôi. Làm quen với các bài tập đọc nhạc nhịp 3/4 , tập đánh nhịp 3/4. Các bài tập đọc nhạc dùng 5 âm : Đồ, rê, mi, son, la, đố. Hoặc 7 âm : Đồ , rê, mi, pha, son, la, xi. Ý nghĩa và nhiệm của việc dạy TĐN. - Giúp học sinh phát triển tai nghe hỗ trợ cho việc học hát chuẩn xác về cao độ, trường độ. - Hình thành những khái niệm ban đầu về việc ghi chép và một số kỹ năng giải mã các ký hiệu âm nhạc ở mức độ đơn giản và thường gặp trong các bài hát thiếu nhi. - Nâng cao thẩm mỹ âm nhạc giúp cho việc nhận thức được tính khoa học, tính nghệ thuật của âm nhạc. - Góp phần phát triển trí tuệ, tình cảm, năng lực tư duy trừu tượng và óc phân tích tổng hợp biết giải quyết tình huống khi phải xử lý các ký hiệu trên giấy biến thành âm thanh vang lên một giai điệu cụ thể. - Giúp cho HS nhận biết và ghi nhớ các ký hiệu ghi chép âm nhạc thông thường như : Ký hiệu ghi trường độ, cao độ. Có hiểu biết về nhịp, phách, các loại nhịp, dấu hoá..... - Giúp HS tập đọc đúng cao độ, trường độ và biết đánh nhịp trên những bài TĐn đơn giản, dễ đọc thông qua những bài trong SGK. - Từ các bài đọc nhạc các em có thể ghép lời ca, hát đúng giai điệu. - Giúp tích luỹ thêm những giai điệu giàu tính thẩm mỹ, làm phong phú vốn liếng âm nhạc và bồi dưỡng năng lực cảm thụ âm nhạc thêm nhạy bén, tinh tế. - Từ những bài TĐN được học và được dạy PP đọc nhạc trong một chừng mực nhất định có thể vận dụng tìm hiểu sử dụng những bài hát ngắn gọn, đơn giản bằng nhạc cụ hoặc tự đọc nhạc. II/CƠ SỞ THỰC TIỄN: Nhạc sĩ Nga Ka - ba - lép- xki đã nói: “Âm nhạc là môn nghệ thuật tác động rất mạnh đến cảm xúc con người. Vì vậy nó giữ vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng tâm hồn thanh thiếu nhi”. Quan sát kĩ người nghe nhạc thì thấy đôi khi họ vô tình đập nhịp chân, gõ tay hay đung đưa người theo tiếng hát, tiếng đàn. Đó là bởi họ chịu tác động của âm nhạc. Bài hát đó sẽ thấm sâu vào tâm hồn họ để họ nhớ mãi và thỉnh thoảng lại hát một cách thích thú với bao kỉ niệm và cảm xúc được sống dậy. Như vậy, ta thấy âm nhạc tác động rất nhanh và bám rễ sâu bền trong tâm hồn con người. Mục tiêu của môn Âm nhạc là “Xây dựng cho học sinh có một số kiến thức và năng lực mang tính văn hoá Âm nhạc”. Để thực hiện mục tiêu đó, PPDH Âm nhạc cũng có những đổi mới cho phù hợp với chương trình và yêu cầu giáo dục Âm nhạc của nhà trường phổ thông.Với đặc trưng của môn học lấy hoạt động thực hành là chủ yếu thì quá trình dạy học là một chuỗi các hoạt động liên tục. ậ tiểu học, học âm nhạc không chỉ là học các nốt Đô, Rê, Mi, mà chính là học hát. Âm nhạc đích thực luôn vang lên qua tiếng hát, tiếng đàn. Tác động của âm nhạc để góp phần giáo dục phải là những âm thanh, những giai điệu, tiết tấu cụ thể. Dạy học hát là một hoạt động mang tính tương tác giữa thầy và trò. Tuy nhiên, dạy học hát không chỉ đơn thuần là thầy đàn và hát mẫu hoặc đàn giai điệu từng câu cho học sinh hát theo mà nó còn là một hoạt động nghệ thuật. Điều đó phụ thuộc nhiều vào trình độ, khả năng của người tổ chức hướng dẫn và các phương tiện dạy học đi kèm. Trong trường hợp phương tiện dạy học có khả năng tái hiện những hình vẽ, tranh ảnh, mô hình,. thì giáo viên có thể nhờ chúng mà tạo nên trong ý thức người học những hình ảnh trực quan cảm tính về những sự vật và hiện tượng một cách sâu sắc. Hơn hết công nghệ thông tin có tác động tích cực trong hoạt đông nhận thức của học sinh. Người giáo viên Tiểu học không những có trách nhiệm là người hình thành ở các em những cơ sở bước đầu cho sự tiếp thu nghệ thuật âm nhạc mà là người đầu tiên phát hiện những mầm non có năng khiếu âm nhạc để sớm bồi dưỡng các em thành những nhân tài của đất nước. Bởi vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn âm nhạc là vô cùng cần thiết, qua những hình ảnh cụ thể, những cảnh thiên nhiên kết hợp với những âm thanh của tiếng đàn, nhạc cụdễ dàng thấm sâu vào tiềm thức cảm nhận về cuộc sống nghệ thuật của các em. III/ THỰC TRẠNG VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 TÂN THUỶ 1. Vài nét về nhà trường và tình hình địa phương: Đổi mới giáo dục phổ thông là một chủ trương lớn mang tính chiên lược lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương đã có sự quan tâm đầu tư cho giáo dục. Các ban ngành đoàn thể trong địa phương đã có sự phối hợp chặt chẽ với nhà trường để hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị trong nhà trường. Năm học 2008-2009, hưởng ứng chủ đề “ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý”, nhà trường đã có sự đầu tư khá tích cực trong vấn đề mua sắm trang thiệt bị hiện đại và đưa Tin học vào nhà trường. Hiện tại, trường có một phòng máy với số lượng 12 máy tính, 1 máy đa năng, 1 máy chiếu qua đầu. Học sinh ừ khối 3 đến khối 5 được học Tin học. Đội ngũ giáo viên cơ bản biết sử dụng và sử dụng thành thạo máy vi tính. 100% giáo viên có chứng chỉ Tin học. 2. Thực trạng việc ứng dụng CNTT trong dạy học Âm nhạc 5 ở trường tiểu học Thanh Tânh: Năm học 2009-2010 này việc dạy học có sử dụng giáo án điện tử đã được nhiều giáo viên đón nhận một cách tích cực. Đây được coi là con đường ngắn nhất để đi đến đích chất lượng của nhà trường. Dạy học có sử dụng giáo án điện tử giúp tạo ra một không khí học tập sôi nổi, thu hút sự chú ý của học sinh. Khi dạy bằng giáo án điện tử giáo viên đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng các thao tác gắn tranh vẽ, chân dung nhạc sĩ, bài hát học sinh được nghe lên bảng, sử dụng nam châm để gắn các nốt nhạc, kẻ vẻ các khuông nhạc,...thì giáo viên chỉ cần kích chuột là có. Dạy bằng giáo án điện tử còn tránh được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và tháo đồ dùng dạy học. Vì vậy chất lượng dạy học các tiết có sử dụng giáo án điện tử đạt hiệu quả cao rõ rệt. Khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể thiết kế bài học như sách giáo khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, kẻ viết mất thời gian mà hình ảnh lại nhỏ không rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn. Mặc dù việc ứng dụng công nghệ thông tin không còn mới mẻ song cũng chưa hẳn được phổ biến rộng rãi. Nhiều giáo viên vẫn còn e dè, ngại ngần, sử dụng công nghệ thông tin một cách máy móc, thụ động. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều giáo viên lớn tuổi đã ăn sâu cách dạy truyền thống, ngại đổi mới. Bên cạnh đó, trình độ Tin học của giáo viên chưa đồng đều, giáo viên chưa được đào tạo một cách bài bản. Mặt khác, thời gian để đầu tư vào một tiết dạy không phải được tính bằng giờ mà được tính bằng ngày. Âm nhạc là môn học cần có sự đầu tư về phương tiện và thời gian khá công phu những khó khăn và tốn kém đó nên ít giáo viên hào hứng với việc áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Thấy được tầm q
Tài liệu đính kèm: