Đề cương nghị luận văn học học kì I Ngữ văn lớp 11 - Dương Thị Thu Trang

doc 71 trang Người đăng dothuong Lượt xem 500Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương nghị luận văn học học kì I Ngữ văn lớp 11 - Dương Thị Thu Trang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương nghị luận văn học học kì I Ngữ văn lớp 11 - Dương Thị Thu Trang
Kiến thức cơ bản và những đề thi liên quan đến các tác phẩm kì 1
VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH
KIẾN THỨC CƠ BẢN
TÁC GIẢ LÊ HỮU TRÁC
Lê Hữu Trác (1724 — 1791) tên, hiệu Hải Thượng Lán ông (ông lười ở Hải Thượng), là nhà y học lỗi lạc nổi tiếng nhất của Việt Nam thời trung đại, là nhà văn, nhà thơ tài hoa, có đóng góp đáng kể đối với văn học dân tộc ở thế kỉ XVIII, đặc biệt là ở thể văn xuôi tự sự.
Lê Hữu Trác là một người toàn tài : dùi mài kinh sử, học hành để thi đỗ, làm quan, học binh thư, theo nghề võ, từng ờ trong quân của chúa Trịnh và lập được ít nhiều công trạng, nhưng cuối cùng ông gắn bó trọn đời với nghề thầy thuốc. Bởi theo ông thì “ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người”.
Sự nghiệp của Lê Hữu Trác khá đồ sộ với bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh (Những lĩnh hội tâm huyết trong ngành y của Hải Thượng) gồm 66 quyển, được biên soạn trong gần bốn mươi năm. Hải Thượng y tông tâm lĩnh chẳng những có giá trị hết sức to lớn về y học mà còn có giá trị văn học. Những ghi chép y học của tác giả, bên cạnh tính chính xác khoa học, ít nhiều đều có sắc thái văn :hưong. Ông diễn ca về cách bào chế thuốc (trong Lĩnh Nam bản thảo), về cách vệ sinh phòng bệnh (trong Vệ sinh yếu quyết diễn ca), về phương pháp chẩn đoán bệnh (trong Y gia quán miên). Những bài diễn ca với mục đích phổ biến y học  để mọi người dễ hiểu, dễ thuộc nên thường có lời văn giản dị mộc mạc. Bộ phận văn học độc lập gồm 29 bàỉ thơ ghi lại những cảm nghĩ của tác giả trong những lần đi về các làng quê chữa bệnh cho dân (Y lí thâu nhàn lí ngôn phụ chí-Trong khi làm thuốc, trộm được lúc nhàn rỗi ghi vài vần thơ quê mùa
Thượng kinh kí sự là quyển cuối cùng (quyển vĩ) trong bộ Hải Thượngy tông tâm lĩnh. Tác phẩm ghi lại cảnh vật, con người mà tác giả tận mắt chứng kiến từ khi được triệu về kinh chửa bệnh cho thế tử Trịnh Cán (ngày 12 tháng Giêng năm Nhâm Dần 1782) đến khi xong việc về lại quê nhà ở Hương Sơn (ngày 2 tháng 11).
TÁC PHẨM THƯỢNG KINH KÍ SỰ
NỘI DUNG
Bức tranh hiện thực về quang cảnh và cuộc sống nơi phủ chúa
Quang cảnh ở phủ chúa cực kì thâm nghiêm, giàu sang, xa hoa.
+ Phủ chúa là nơi thâm nghiêm, là một thế giới riêng biệt. Người vào phủ chúa phải qua rất nhiều cửa gác : qua mấy lần cửa mới tới đường dẫn vào phủ chúa, lại phải qua những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, qua mấy lần cửa nữa mới đến cái điếm Hậu mã quân túc trực mọi việc đều phải có quan truyền lệnh, chỉ dẫn.
+ Phủ chúa cực kì giàu sang, lộng lẫy không đâu sánh bằng: “các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Giàu sang từ nơi ở: đường đi trong phủ chúa “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Xa hoa từ vật dụng đến đồ ăn thức uống : vật dụng hằng ngày thì “đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng”, đồ ăn thức uống “toàn của ngon vật lạ”.
Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa với nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy nhưng thiếu sinh khí.
+ Phủ chúa là noi thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền. Uy quyền nol phủ chúa thể hiện ở những tiếng quát tháo, truyền lệnh, những tiếng dạ ran, ở những con người oai vệ và những con người khúm núm, sợ sệt. Khi tác giả lên cáng vào phủ chúa thì có “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường”, “cáng chạy như ngựa lồng”. Trong phủ chúa “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Thầy thuốc vào khám bệnh phải chờ, phải rún thở, khúm núm lạy tạ,
+ Phủ chúa là nơi ốm yếu, thiếu sinh khí. Sự thâm nghiêm kiểu mê cung càng làm tăng ám khí; ám khí bao trùm không gian, cảnh vật; ám khí ngấm sâu vào hình hài, thể tạng con người : “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Vị chúạ nhỏ Trịnh Cán cái gì cũng “quá” .trong sự xa hoa nhưng lại thiếu một điều cơ bản là sự sống, sức sống.
Phản ánh quang cảnh, cuộc sống nơi phủ chúa, tác giả đã cho người đọc thấy uy quyền và sự lộng quyền của chúa Trịnh. Từ bài trí nội thất đến cung cách sinh hoạt, từ hệ thống quan lại đến kẻ hầu người hạ, phủ chúa không những giống cung vua mà còn lộng lẫy, uy quyền hơn cả cung vua. Bức tranh phủ chúa trong Vào phủ chúa Trịnh hoàn toàn phù hợp với bức tranh hiện thực lịch sử lúc bấy giờ.
2. Thái độ của tác giả trước hiện thực, nhân cách của Lẻ Hữu Trác qua đoạn trích
Tác giả đã phê phán cuộc sống xa hoa nhưng ốm yếu nơi phủ chúa, mỉa mai sự lộng quyền của chúa Trịnh. Miêu tả phủ chúa giàu sang, xa hoa nhưng thiếu sinh khí, trái với tự nhiên, người viết đã gián tiếp phê phán hiện thực cuộc sống nơi phủ chúa. Cuộc sống giàu sang, xa hoa nơi phủ chúa được tác giả khái quát bằng một bài thơ, ẩn chứa trong giọng điệu trữ tình có đôi sắc điệu của sự mỉa mai : Cả trời Nam sang nhất là đây-Lầu từng gác vẽ tung mây -Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào – Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới – Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Lê Hữu Trác là một danh y vừa có y thuật giỏi, vừa có y đức lớn, một con người cốt cách thanh cao.
Y thuật giỏi, y đức lớn của Lê Hữu Trác bộc lộ rõ khi ông giải quyết những mâu thuẫn khó xử trong lúc chữa bệnh cho Trịnh Cán. Nếu chửa khỏi bệnh cho thế tử, ông sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về voi núi rừng nơi ẩn dật. Để tránh được điều này, cần chữa bệnh cầm chừng, cho thuốc vô thưởng, vô phạt. Nhưng làm như thế thì trái với y đức. Cuối cùng lương tâm người thầy thuốc đã thắng. Ông đã gạt sang một bên sở thích cá nhân để làm tròn trách nhiệm của ngưòi thầy thuốc. Khi đã quyết, Lê Hữu Trác thẳng thắn đưa ra cách chữa bệnh họp lí, mặc dù càch chữa bệnh của ông khác vói âc số các ý kiến của các thầy thuốc trong cung.
Lê Hữu Trác còn là người có cốt cách thanh cao. Ông xem thường danh lợi, yêu thích tự do, chỉ có ý nguyện “về núi”, sống thanh đạm “ở nơi quê mùa’ của một ông già áo vải
NGHỆ THUẬT
Đặc điểm Cơ bản của kí sự
Kí sự là một thể thuộc loại kí nhằm ghi chép lại một câu chuyện, một sự kiện tương đối hoàn chỉnh. Kí sự viết về những sự việc, con người có thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến; sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật So với bút kí, tuỳ bút, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả hoặc những yếu tố liên tưởng, nghị luận ở kí sự thường ít hơn. Tuy nhiên khi viết kí sự, cùng với những ghi chép khách quan, tác giả vẫn có thể bộc lộ cảm nghĩ, thái độ của chính mình. Mặc dù cốt truyện không chặt chẽ như truyện, song trong các tiểu loại của kí thì kí sự gần với truyện hơn cả.
Đặc điểm bút pháp kí sự qua đoạn trích
Tài quan sát tỉ mỉ, kết hợp với ngòi bút ghi chép sự việc trung thực, tả cảnh, tả người sinh động, kể chuyện khéo léo.
Sự việc được miêu tả theo trình tự thời gian. Tư liệu phong phú, chi tiết chân thực và chọn lọc. Tác giả đặc biệt chú ý các chi tiết khác lạ, từ những đồ vật lạ lùng, quý hiếm đến cung cách sinh hoạt đi lại, thưa gửi khác thường tạo nên sự chú ý, hấp dẫn đối với người đọc.
Kết hợp ghi chép sự việc một cách chính xác, khách quan vói bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc chủ quan của tác giả.
Nhà văn kết họp miêu tả chính xác, khách quan với việc thể hiện những cảm nhận chủ quan nên đã truyền tới người đọc những cảm xúc, suy tư của chính ngưòi viết. Những ưang viết của Hải thượng Lãn ông vừa có tính chính xác, tường tận, minh bạch của một nhà khoa học, vừa mang cảm xúc của một trái tim nghệ sĩ.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Cảm nhận của anh (chị) về bức tranh hiện thực noi phủ chúa và thái độ của tác giả trước hiện thực đó.
Phân tích những đặc sắc nghệ thuật ưong cách viết kí sự của Lê Hữu Trác qua đoạn trích.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
1.Qua những ghi chép của tác giả, phủ chúa hiện lên vói hai mảng hiện thực: cực kì giàu sang, lộng lẫy, xa hoa không đâu sánh bằng; thâm nghiêm đầy uy quyền nhưng ốm yếu, thiếu sinh khí.
Quang cảnh giàu sang, lộng lẫy, xa hoa được gọi lên ngay từ những ấn tượng đầu tiên : “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Giàu sang từ nol ở: Lầu từng gác vẽ tung mây – Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào. Giàu sang ttong tiện nghi sinh hoạt: vật dụng hằng ngày thì “đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng”, đồ ăn thức uống toàn cao lương mĩ vị “mâm vàng, chén bạc”, “toàn của ngon vật lạ”. Phủ chúa phô bày sự giàu sang và cũng không che giấu sự xa xỉ. Để phục dịch một ông chúa nhỏ, một đứa ưẻ độ năm, sáu tuổi mà cố tói “năm sáu lần trướng gấm”, chiếc phòng rộng vói chiếc sập, chiếc ghế sơn son thếp vàng bày nệm gấm và những ngưòi đứng hầu hai bên. Ngưòi hầu kẻ hạ nhiều vô kể : “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch cho thế tử và lúc nào cũng có “mấy ngưòi đứng hầu hai bên”. Vật và ngưòi nơi phủ chúa không chỉ được dát vàng mà còn được trát phấn son và bao bọc bởi tầng tầng lóp lóp hương hoa.
Cuộc Sống nơi phủ chúa thật thâm nghiêm, đầy uy quyền nhưng ốm yếu, thiếu sinh khí.
Cụộc sống sinh hoạt noi phủ chúa vói nhiều lễ nghi, khuôn phép, thể hiện quyền uy tột đỉnh. Để đến được chỗ ở của thế tử Cán phải qua nhiều nơi canh phòng rất cẩn mật. Tác giả không được thấy mặt chúa mà chỉ làm theo mệnh lệnh, xem bệnh xong cũng không được phép trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải. Khi nói đến chúa Trịnh và thế tử, lời lẽ phải hết sức cung kính lễ độ : “Có thánh chỉ triệu cụ vào”, “Nay vâng thánh chỉ”, “Thánh thượng cho phép cụ vào hầu mạch”, “hầu mạch Đông cung thế tử”,
Theo bước chân tác giả, người đọc có cảm giác đi vào phủ chúa như đi vào mê cung đầy uy quyền bí hiểm và ám khí: “Chúng tôi đi cửa sau vào phủ. Người truyền lệnh dẫn tôi qua mấy lần cửa nữa”, “đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa nữa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. Để vào nơi ở của chúa còn phải lần theo lối đi “ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”, phải “đi qua độ năm sáu lần trướng gấm”. Trong cái mê cung này, ám khí bao trùm không gian, cảnh vật: không ánh mặt trời, cuộc sống bị vây bọc bởi gấm vóc, phấn sáp, hương hoa. Ám khí ngấm sâu vào hình hài thể tạng Trịnh Cán : “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thời xanh, chân tay gầy gò”. Bởi “Thế tử ờ trong chốn màn che-trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”
Qua ngòi bút kí sự với những ghi chép cụ thể, chi tiết, người đọc còn nhận ra sự lộng quyền, tiếm quyền của chúa Trịnh. Trong đoạn trích có tới bốn lần xuất hiện từ thánh chỉ ba lần từ thánh thượng để chỉ Trịnh Sâm, một lần từ thánh thể để chỉ thế tử Trịnh Cán. Chữ thánh lúc đầu dùng để chỉ người tài trí, đức độ siêu phàm, “về sau thường dùng để chỉ vua. Chúa là bề tôi của vua, không được phép dùng từ thánh để chỉ chúa. Chỉ cần qua những chi tiết này cũng đủ thấy sự lộng quyền, tiếm quyền của nhà chúa đã lên tới cực điểm.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh đã thể hiện cảm nghĩ, thái độ của Lê Hữu Trác trước hiện thực nơi phủ chúa. Tác giả tỏ thái độ phê phán cuộc sống xa hoa, trái tự nhiên trong Trịnh phủ, đồng thời không đồng tình với sự lộng quyền, tiếm quyền của chúa Trịnh.
Qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có thể thấy những đặc sác nghệ thuật trong cách viết kí sự của Lê Hữu Trác.
Trước hết là tài quan sát tỉ mỉ, kết họp vói ngòi bút ghí chép sự việc trung thực, tả cảnh, tả người sinh động, kể chuyện khéo léo.
Sự việc được miêu tả thẹo trình tự thời gian. Tư liệu phong phú, chi tiết chân thực và có chọn lọc. Tác giả đặc biệt chú ý các chi tiết khác lạ, từ những đồ vật lạ lùng, quý hiếm đến cung cách sinh hoạt, đi lại thưa gửi khác thường tạo nên sự chú ý, hấp dẫn đối với người đọc : “cái gác này gọi là “Gác tía”. Vì thế tử dùng và ở đây, cho nên gọi nó là “phòng trà”. (Số là ở đây kiêng danh từ “thuốc” nên gọi thuốc là “trà”)” ; “Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Tác giả không bỏ qua những chi tiết nhỏ và nhiều khi những chi tiết tưởng như nhỏ nhặt, ngẫu nhiên lại có tác dụng nói lên cái thần của cảnh, của người. Ví dụ đoạn miêu tả thế tử Trịnh Cán : “Một ngưừi ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên Thế tử cười: “Ông này lạy khéo”-”. Chỉ qua một lời nói, Trịnh Cán hiện lên đúng là một ông chúa con, cái “oai” của “bề trên” không che lấp cái ngô nghê của một đứa trẻ miệng còn hơi sữa. Bức chân dung mang một nét hài hước kín đáo.
Nhà văn kết hợp miêu tả chính xác, khách quan với việc thể hiện những cảm nhận chủ quan nên đã truyền tới người đọc những cảm xúc, suy tư của chính người viết: “Tôi ngẩng đầu lên : đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương Tôi nghĩ bụng : Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ nghe nói thôi. Bước chân tới đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường! Bèn ngâm một bài thơ để ghi nhớ việc này”. Vãn Lê Hữu Trác vừa có tính chính xác, tường tận, minh bạch của một nhà khoa học, vừa tràn đầy cảm xúc của một trái tim nghệ sĩ.
TỰ TÌNH- HỒ XUÂN HƯƠNG
ĐỀ 1 : Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (II)
Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng thế kỉ XVIII đã được nhà thơ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nồm”. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian thì bà là người đa tài, đa tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn văn chương. Tuy thế, đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy chồng đều không toại nguyện, vì thế mà bà luôn sống trong tam trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) có lẽ được sáng tác trong hoàn cảnh ấy.
Trong một ngày thì lúc hoàng hôn hay đêm khuya thanh vắng thường dễ gợi buồn nhất. Với những người đa cảm như Xuân Hương, đây là thời điểm mình sống thực với lòng mình và chắc là tâm trạng của bà sau bao sóng gió cuộc đời cũng chẳng khác mấy tâm trạng Thuý Kiều khi một mình một bóng trước ngọn đèn khuya: Khi tĩnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa !
Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Bước chân của đêm tối mới nặng nề, chậm chạp làm sao! Chậm chạp nhưng nó vẫn đi, còn tâm trạng buồn thương của con người trong đêm khuya thì lắng đọng và chốc chốc lại như dồn như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng nặng trĩu. Nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thốt thành lời chua chát, đắng cay. Hổng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Nhưng lại gọi với ý mĩa mai là cái hổng nhan thì nữ sĩ đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác. Chao ôi! Biết bao là xót xa, hờn tủi trong cách gọi bất bình thường ấy! Lại còn trơ ra đó với nước non, có nghĩa là đã chai sạn mọi cảm giác, cảm xúc chứ không phải là trơ trọi trước cảnh nước non dào dạt sức sống, sức yêu. Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ ở giờ khắc đặc biệt này.
Tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy:
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Muốn mượn chén rượu thdm để say cho quên hết mọi đau khổ, bẽ bàng, lỡ lầm, dối trá nhưng khổ nỗi không sao quên được. Hết say lại tỉnh mà bao hững hờ, dối trá của người đời vẫn sờ sờ ra đó và nỗi bẽ bàng, đau khổ của mình thì cũng cứ còn nguyên. Ước mong có được một mảy may bù đắp, một chút an ủi mà nào có được! vầng trăng bóng xế giống như đời mình đã ngả chiều. Chờ đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ khuyết chưa tròn. Vậy thì biết đến bao giờ trăng mới tròn, hỡi trời !
Tĩnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình không đến nỗi tuyệt vọng. Niềm tin của nữ sĩ vẫn còn, trước hết là tin ở lòng mình, sức mình. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu trong đá:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mấy, đá mấy hòn.
Rêu yếu ớt là thế mà từng đám, từng đám vẫn tung sức sống xiên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im lìm là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Cách đặt câu. đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất diệt của thiên nhiên. Mình là con người nên đâu có thể dễ dàng biến thành gỗ đá được?!
Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt bừng tĩnh, muốn làm theo rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội với bao dối trá, lạnh nhạt, chưa kể áp bức, bất công vẫn nhơn nhơn còn đó. Mà trái tim luôn rạo rực cảm xúc của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày tỏ và chia sẻ:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Ngày tháng cứ tuần tự trôi qua. Xuân đi xuân lại lại theo nhịp tuần hoàn của đất trời, nhưng trước đôi mắt đầy tâm trạng của nữ sĩ thì nó lại như một sự cố tình trêu ngươi, vì mùa xuân của đời người chỉ có qua đi mà không bao giờ trở lại. Vậy thì có đáng buồn, đáng chán hay không? Ngẫm đến mình thì tuổi xuân trôi qua đã lâu, tình thì chỉ còn một mảnh. Cụ thể hoá tình yêu đến như thế thì quả là nữ sĩ không chỉ chán chường mà còn ngao ngán đến cực độ. Tuy nhiên vẫn chưa phải là tuyệt vọng. Dẫu tình yêu, tình đời chĩ còn một mảnh tí con con nhưng nữ sĩ vẫn muốn ,tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân thành là để cho nhân tình thế thái đỡ xanh như lá, bạc như vôi. Đọc kĩ câu thơ, ta nghe như nỗi hờn giận, đau xót thấm đến tận chân tơ kẽ tóc, đến từng tế bào nhưng nữ sĩ vẫn không nguôi hi vọng.
Bài thơ Kể nỗi lòng in đậm dấu ấn cá tính và phong cách thơ Xuân Hương. Đúng là bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hể bi lụy. Cốt cách cứng cỏi, tâm hổn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa lồ tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy- Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ vẫn đắm say, thiết tha với cuộc sống. Đó là điều cốt lõi rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương – “Bà chúa thơ Nôm”.
ĐỀ 2:Đề thi học sinh giỏi về bài Tự Tình- Hồ Xuân Hương
Bàn về thơ, Xuân Diệu có nói: “thơ là hiện thực. thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng việc phân tích bài thơ Tự tình ( II) của Hồ Xuân Hương, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Hướng dẫn cách làm:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần phải đảm bảo được các ý sau:
Mở bài :
+Dẫn dắt và giới thiệu nhận định: “thơ là hiện thực. thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”
+ Giới thiệu bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương
Thân bài
Luận điểm 1 : Giải thích nhận định
“Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời ”,
+ Thơ ca phải bắt nguồn từ hiện thực đời sống, từ những vui buồn, đau  khổ, hạnh phúc của cuộc đời, của số phận cá nhân con người.
+ Thơ ca phải hướng tới cuộc đời, con người chứ không phải là cái gì đứng tách riêng biệt khỏi đời sống
“Thơ còn là thơ nữa”
+ Nếu chỉ là sự phản ánh đời sống một cách đơn thuần thì thơ không phải là thơ. Thơ phảỉ mang những đặc trưng riêng về nội dung lẫn hình thức.
– Đặc trưng về nội dung: Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức; tình cảm trong thơ phải là tình cảm cao đẹp, nhân văn; chất thơ của thơ
– Đặc trưng về hình thức: Ngôn ngữ thơ có nhịp điệu; được cấu tạo đặc biệt, biểu hiện bằng biểu tượng; ngôn từ lạ hoá, giàu nhạc tính
Cần chỉ rõ: đây là nhậnđịnh đúng, có ý nghĩa như một tiêu chí để xác định một tác phẩm thơ đích thực. Một tác phẩm thơ có giá trị phải là một tác phẩm bắt nguồn từ cuộc sống, hướng đến cuộc sống nhưng đã được nghệ thuật hoá về nội dung lẫn hình thức
Luận điểm 2 :Phân tích bài thơ Tự tình (bài II) để  làm sáng tỏ nhận định
Bài thơ Tự tình ra đời từ bi kịch cá nhân của Hồ Xuân Hương, cũng là bi kịch của rất nhiều người phụ nữ trong xã hội cũ: Thân phận làm lẽ, không được tự do quyết định hạnh phúc của chính mình.
Học sinh cần phân tích để thấy được bi kịch cá nhân trong bài thơ được thể hiện một cách mãnh liệt và sâu sắc. Đó là nỗi cô đơn, đau khổ

Tài liệu đính kèm:

  • doc71_trang_tai_lieu_nghi_luan_van_hoc_lop_11Ki_I.doc