Chuyên đề ôn tập THPT quốc gia môn Ngữ văn

doc 95 trang Người đăng dothuong Lượt xem 2451Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề ôn tập THPT quốc gia môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề ôn tập THPT quốc gia môn Ngữ văn
Nội dung
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
I. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ 
1
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
5
III. PHẠM VI CHUYÊN ĐỀ 
5
NỘI DUNG
6
A. HỆ THỐNG CÁC KIẾN THỨC SỬ DỤNG TRONG CHUYÊN ĐỀ
6
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ LOẠI THỂ VĂN HỌC
6
1. Khái niệm loại thể văn học.
6
2. Các loại thể văn học
6
II. NHỮNG VẤN ĐỀ THEN CHỐT KHI KHAI THÁC PHẦN CÁC TÁC PHẨM THƠ GIAI ĐOẠN 1945 - 1975
6
1. Đặc trưng của thơ và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ 
6
a. Thơ: quan niệm và phân loại
6
b. Đặc trưng của thơ
6
c.Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ
8
2. Điều kì diệu của thơ và một số nhận định hay về thơ
9
a. Điều kì diệu của thơ
9
b. Một số nhận định hay về thơ
11
c. Một số nhận định hay về tác giả, tác phẩm thơ giai đoạn 1945 – 1975
13
3. Cần nhìn nhận các tác phẩm thơ được tìm hiểu trong chuyên đề trong sự gắn bó với các đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến 1975 
15
4. Phong cách nghệ thuật của nhà thơ 
15
5. Cách làm kiểu đề so sánh văn học (các khía cạnh của tác phẩm thơ)
16
B. HỆ THỐNG (PHÂN LOẠI, DẤU HIỆU NHẬN BIẾT ĐẶC TRƯNG) CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ
17
C. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI CÁC DẠNG BÀI TẬP TRONG CHUYÊN ĐỀ
17
D. HỆ THỐNG CÁC VÍ DỤ, CÁC BÀI TẬP CỤ THỂ CÙNG LỜI GIẢI MINH HOẠ CHO CHUYÊN ĐỀ 
18
I.VÍ DỤ LỜI GIẢI MINH HOẠ CHO MỘT ĐỀ VĂN CỤ THỂ TRONG CHUYÊN ĐỀ
18
II. CÁC DẠNG BÀI TẬP CỤ THỂ TRONG CHUYÊN ĐỀ
34
1. Dạng đề đọc hiểu
34
2. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí đặt ra trong tác phẩm 
37
3. Dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
39
4. Dạng đề so sánh văn học 
56
5. Dạng đề nghị luận về một (hoặc hai) ý kiến bàn về văn học 
70
6. Dạng đề liên quan đến đặc trưng của thơ 
83
E. GIỚI THIỆU NHỮNG ĐỀ NÂNG CAO TỰ GIẢI
96
NỘI DUNG
A. HỆ THỐNG CÁC KIẾN THỨC SỬ DỤNG TRONG CHUYÊN ĐỀ
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ LOẠI THỂ VĂN HỌC.
1. Khái niệm loại thể văn học.
Loại thể văn học là: “Phạm trù phân loại các tác phẩm văn học, vốn đa dạng đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, về một số dấu hiệu nhất định. Các nhóm lớn nhất là những“loại”; mỗi loại gồm những nhóm nhỏ hơn là những thể (hoặc “thể loại”, “thể tài”)(Lại Nguyên Ân; 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1999, tr.190).
2. Các loại thể văn học
Các tác phẩm dạy và học ở trường phổ thông có bốn loại lớn là: tự sự, trữ tình, kịch và nghị luận.
– Các tác phẩm thơ (trữ tình) chiếm một khối lượng lớn trong chương trình trung học phổ thông, là phần kiến thức hết sức quan trọng trong cấu trúc đề thi đại học, thi THPTQG của Bộ Giáo dục và Đào tạo những năm gần đây. Vì vậy việc dạy học thơ bám sát đặc trưng thi pháp loại thể là một yêu cầu cấp bách. Nói như giáo sư Trần Đình Sử: "Muốn xác lập hệ thống các phương pháp dạy học ngữ văn trước tiên chúng ta cần xác định nội dung môn học, xác định các hoạt động cơ bản để đạt được kết quả của môn học, rồi từ đó mà xác định các phương pháp cụ thể đặc thù của bộ môn. Phương pháp dạy học ngữ văn phụ thuộc vào đặc trưng của bộ môn và đặc trưng loại thể". 
II. NHỮNG VẤN ĐỀ THEN CHỐT KHI KHAI THÁC PHẦN CÁC TÁC PHẨM THƠ GIAI ĐOẠN 1945 - 1975
1. Đặc trưng của thơ và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ 
a. Thơ: quan niệm và phân loại
 Thơ là gì? Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về thơ, nhưng rất hiếm định nghĩa đủ sức bao quát được tất cả mọi đặc trưng của thể loại này. Quan niệm dưới đây của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi có thể xem là đầy đủ nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999).
- Các thể thơ Việt Nam có thể phân loại thành 3 nhóm chính:
+ Các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát, hát nói.
+ Các thể thơ Đường luật: ngũ ngôn, thất ngôn (tứ tuyệt, bát cú).
+ Các thể thơ hiện đại: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp. tự do, thơ - văn xuôi... 
Các bài thơ được tìm hiểu trong chuyên đề thuộc nhóm các thể thơ hiện đại.
b. Đặc trưng của thơ
- Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú, yếu tố trữ tình giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm. Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã ứ đầy”. Nhà thơ Pháp Alfret de Mussé chia sẻ: "Hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và thở than lúc bàn tay đang viết", "nhà thơ không viết một chữ nào nếu cả toàn thân không rung động". Nhưng tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có. Nói về điều này, nhà văn M. Gorki cũng cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm. Tình cảm trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Không có cuộc sống, không có thơ”.
- Thơ không chỉ là cảm xúc mà cần cả lí trí. Đó là chiều sâu của nhận thức. Nếu thơ chỉ thiên về cảm xúc, bài thơ sẽ thiếu chất trí tuệ, thiếu sự suy tưởng triết lí mang tính khái quát về cuộc sống.
- Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
 - Những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tại và mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này. Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy. 
 - Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ. Cảm xúc dồn nén, nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó, thơ tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
 - Mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ bên trong.
 - Ngôn ngữ thơ có 3 đặc trưng cơ bản là tính chính xác, tinh luyện, tính hình tượng và tính biểu cảm. Thơ phát huy tính nhạc phong phú của tiếng Việt. Thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật độc đáo. Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Nhà thơ còn được gọi là "phu chữ". Maiacôpxki đã từng viết:
Nhà thơ trả chữ
Với giá cắt cổ
Như khai thác
Chất hiếm “rađiom”
Lấy một gam
Phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ
Phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.
Và thơ ca khi trở lại với con người và cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm giàu có, trong sáng. "Khác với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm linh con người" (Hữu Đạt). "Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc" (Bác Hồ). 
 Từ những đặc trưng của thơ, thi sĩ Sóng Hồng có viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường".
c.Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ
Chúng ta biết rằng một tác phẩm thơ là công trình nghệ thuật mà nhà thơ mất bao công sức, bao trải nghiệm để sáng tạo nên. Nó thật sự có giá trị khi mang ý nghĩa đời sống, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư tình cảm, nhận thức của con người. Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, chúng ta cần tiến hành theo các bước sau đây:
- Cần biết rõ tên bài thơ, tên tác giả, thời gian và hoàn cảnh sáng tác, đó là cơ sở ban đầu để tiếp cận tác phẩm.
 - Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ. Qua việc đọc, phải xác định được chủ đề, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn), đối tượng trữ tình, hình tượng trữ tình và giọng điệu chủ đạo của bài thơ.
 - Cảm nhận nội dung, ý nghĩa bài thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu, các biện pháp tu từ, 
 - Lí giải, đánh giá toàn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả (phong cách tác giả thể hiện qua tác phẩm) cho thơ và cho cuộc sống con người. 
- Có cái nhìn liên tưởng, so sánh giữa các bài thơ, tác giả thơ (cùng viết về một chủ đề, hình tượng cùng thời...) để giải quyết được những đề văn tổng hợp hoặc mang tính lí luận về thơ.
Đọc hiểu tác phẩm thơ là một công việc khó khăn bởi phải huy động vốn kiến thức về nhiều mặt (lịch sử xã hội, lịch sử văn học, xã hội học, tâm lí học...). Nhưng có kiến thức chưa đủ, còn phải có cả khả năng cảm thụ, tức là cần có sự nhạy bén về tình cảm, cảm xúc trước cái đẹp văn chương. Ngoài ra còn phải nắm được phương pháp tiếp cận tác phẩm thơ theo loại thể, phương pháp phân tích các khía cạnh của tác phẩm thơ và đặt nó trong mối quan hệ đa chiều với nhiều đơn vị kiến thức có liên quan.
 Một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận được ngay. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mác bên trong hình tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ:  “Đối với thơ ca, người xưa thường ví với nem chả, hoặc ví với gấm vóc. Nem chả là vị rất ngon ở đời, gấm vóc là mầu rất đẹp ở đời. Phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng, mà không vứt bỏ khinh thường. Có điều là: sắc đẹp của thơ lại ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được; cũng vậy, vị ngon của thơ lại ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm thấy. Chỉ có thi nhân mới có thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó”...  Hay như Sóng Hồng viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.
Giá trị và sức sống của tác phẩm thơ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng cảm thụ của người tiếp nhận. Nhà thơ Môsac từng quan niệm: “Tác phẩm thực ra chỉ được tạo thành bởi những kí hiệu câm lặng, những ngôn ngữ chết, cho nên bản thân nó chưa có giá trị gì, nếu có cũng chỉ là đôi chút. Cái quan trọng là vai trò của người đọc. Chính bạn đọc sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm”. Ông cũng khẳng định: “không có bạn đọc thì không chỉ có sách của chúng ta mà cả những tác phẩm của Hôme, Đăngtơ, Puskin, Đôxtôiepxki tất cả chỉ là đống giấy chết”. Bởi vậy nhân tố độc giả có vai trò đặc biệt trong đời sống văn học. Vì thế, mỗi học sinh phải thấy được vai trò quan trọng của mình – trong tư cách người tiếp nhận tác phẩm thơ. Trong dạy học tác phẩm văn học nói chung cũng như tác phẩm thơ trữ tình nói riêng, quá trình tiếp nhận tác phẩm trở thành quá trình "đồng sáng tạo".
2. Điều kì diệu của thơ và một số nhận định hay về thơ
a. Điều kì diệu của thơ
Thơ ca bắt rễ từ lòng người và nở hoa nơi từ ngữ. Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình (Chế Lan Viên). Thơ là một trong những loại hình kỳ diệu nhất, “cõi thơ là cõi bồng phiêu” (Bùi Giáng). Đi tìm bản thể của thơ luôn là một hành trình đầy bí ẩn. Chính vì lẽ đó, ở bất cứ nền văn học nào, việc kiến tạo hệ thống quan niệm lý luận về thơ là vấn đề lý thuyết vô cùng quan trọng, góp phần định hướng cho việc nghiên cứu và sáng tác thi ca.
Thơ ca hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa vẹn tròn, hoàn chỉnh: Thơ là gì? Thơ bắt nguồn từ đâu? Thơ có mãnh lực gì khiến hàng ngàn tâm hồn rung động, hàng triệu trái tim thuần khiết thổn thức? 
“Thơ ca là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con tim, thiêng liêng nhất của tâm hồn con người và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu nhất trong thiên nhiên” (Lacmactin). Những người nghệ sĩ luôn là người nhạy cảm với những vòng quay của cuộc sống, những điều kì diệu xảy ra xung quanh. Những con người đó luôn hoà vào cuộc sống, bằng con mắt tinh tế của mình và bằng nguồn cảm hứng bất tận của cuộc sống, họ đã tìm ra những gì tinh tuý nhất từ cuộc sống để làm nên thơ ca. Chính vì vậy mà thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước những gì diễn ra xung quanh mình, là tiếng nói của tâm hồn con người trước con người và trời đất. Thơ mang những cung bậc cảm xúc bắt rễ từ chính cuộc đời, hút những tinh chất từ cuộc đời, là lăng kính chủ quan, cầu nối giữa nghệ thuật và đời sống. 
Thơ là biểu hiện của con người và thời đại một cách cao đẹp. Đó là những viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. Thơ là nơi những tình cảm nơi sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ được bộc lộ: những suy nghĩ, những trăn trở và những gì trải nghiệm, đang khát khao hướng tới. Thơ ca trước hết là kết tinh đẹp nhất của cảm xúc, vừa mơ hồ khó tả lại đẹp đến xao lòng. Thơ gắn bó với đời sống, là cuộc đời. Thơ đi qua lăng kính chủ quan và phản ánh nỗi niềm của cuộc đời. Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm hồn nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không bén rễ vào cuộc đời, không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uột, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Ngòi bút của nhà thơ phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì những vần thơ mới tươi màu, neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Cuộc đời vốn bao la, vô tận như một bức tranh với ba chiều không gian trải rộng đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong những khu rừng cuộc đời ấy, như Chế Lan Viên đã từng viết:
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một mật ngọt thành, đòi vạn chuyến ong bay”.
Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn hình bóng của cuộc đời rộng lớn. “Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ tạo được từ trí tưởng tượng và cái tôi nhỏ bé của người nghệ sĩ thì thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng vỏ bào” (Pauxtôpxki). Nếu thơ là cánh diều, cuộc đời làm nên hình hài cho thơ thì nghệ thuật lại là cơn gió nâng cánh diều tung bay. Nếu thơ là đoá hướng dương, những gì tinh tuý của đất làm nên sức sống cho bông hoa thì ánh sáng mặt trời nghệ thuật làm nên điều kì diệu của bông hoa đó. Thơ đơn thuần không chỉ có cuộc đời, nếu thiếu nghệ thuật thì thơ trở thành một hòn ngọc thô ráp chưa được mài giũa: “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi” (tục ngữ). Thơ ca cất cánh từ biển cuộc đời và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Chính nghệ thuật là phương tiện biểu hiện của thơ ca, giúp hoàn chỉnh thêm ý niệm về nghệ thuật, về đặc trưng của thơ ca. Jacques Roubaud, một nhà thơ đương đại hàng đầu của Pháp đã nói: “Thơ là ký ức bằng con số và nhịp điệu của ngôn ngữ”. Khác với văn xuôi, thơ là sự đồng điệu giữa những nhịp đập của ngôn từ và sự dao động của tâm hồn. “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi động chạm tới cuộc sống. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi từ điểm này qua điểm khác. Thơ chỉ chọn ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo. Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích” (Nguyễn Đình Thi). Thơ có vần, có điệu. Thơ ẩn chứa những cảm xúc tiềm tàng của thi sĩ mà văn xuôi không thể có. Nghệ thuật chính là cái khám phá ra những cảm xúc đó, là cái đẹp của thi ca được nuôi dưỡng trên mảnh đất hiện thực. Mỗi bài thơ, mỗi thi sĩ lại có bút pháp nghệ thuật riêng tô đậm lên vẻ đẹp của thơ ca.
Thơ ca khơi dậy trong con người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, thanh lọc tâm hồn con người, chắp cánh cho họ  bay tới những ước mơ, khát vọng. Với hệ thống nhịp điệu, cách gieo vần, ngôn từ trong thơ ca hàm súc, cô đọng, yếu tố nhạc hoạ sử dụng đan xen, thơ là cuộc đời, là tình cảm nhưng không tách rời nghệ thuật. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật được tạo nên từ sự thống nhất của hai yếu tố nội dung và hình thức biểu hiện. Trong đó nội dung bao giờ cũng đóng vai trò quyết định việc lựa chọn hệ thống các phương tiện biểu hiện của người viết.
Thơ là dòng sông soi bóng hình cuộc đời, len vào trong tâm hồn con người những mạch ngầm cảm xúc dào dạt chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải yêu “cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đúc những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó, là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy”(Nguyễn Khải) . Thơ trước hết chính là cuộc đời và sau đó mới là nghệ thuật. Ý kiến của Bêlinxki là hoàn toàn chính xác, mang sức nặng của sự trải nghiệm cuộc đời gắn với nghiệp thi ca. Nhà thơ là người sống giữa cuộc đời phải biết mở lòng ra đón lấy những vang dội của cuộc đời, đối mặt với hiện thực cuộc sống và hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật.
Giúp học sinh hiểu dược điều kì diệu của thơ nghĩa là người giáo viên đã thắp được ngọn lửa tình yêu văn chương ở mỗi học sinh.
b. Một số nhận định hay về thơ
STT
Nội dung nhận định
Tác giả
1
"Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình".
C. Mac
2
“Thơ là bà chúa của nghệ thuật”.
Xuân Diệu
3
"Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy".
Phạm Văn Đồng
4
 "Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy".
Tố Hữu
5
"Người thơ phong vận như thơ ấy".
Hàn Mặc Tử
6
"Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị”.
Lê Hữu Trác
7
“Làm thơ có ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngoài gây thành ý, rồi dùng điển tích để nói việc ngày nay, chép việc xưa hay thuật chuyện hiện tại, đều tự nhiên có tinh thần". 
Lê Quý Đôn
8
“Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lương hiu hắt thì phần nhiều sa vào buồn bã. Chỉ có th

Tài liệu đính kèm:

  • docON_THPT_QG.doc