Bài soạn Ngữ văn lớp 11 - Văn bản: Chiều tối (Hồ Chí Minh)

docx 7 trang Người đăng dothuong Lượt xem 580Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Bài soạn Ngữ văn lớp 11 - Văn bản: Chiều tối (Hồ Chí Minh)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài soạn Ngữ văn lớp 11 - Văn bản: Chiều tối (Hồ Chí Minh)
Tổ 3:
CHIỀU TỐI (MỘ)	
-HỒ CHÍ MINH-
TÌM HIỂU CHUNG:
Tác giả: Hồ Chí Minh (1890-1969)
Con người:
- Từ nhỏ Người đã thông minh, lanh lợi, thương xót đồng bào, ý thức cao độ về nền độc lập dân tộc.
- Sớm tham gia các phong trào yêu nước của thanh niên, khao khát quyết tâm tìm ra con đường cứu nước. 
Sự nghiệp văn chương:
Hồ Chí Minh không chỉ là một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn. Trước lúc từ biệt thế giới này, Người đã để lại cho nhân dân ta, đất nước ta những di sản tinh thần vô giá. Trong số đó phải kể đến một sự nghiệp văn chương vừa phong phú về thể loại, vừa đa dạng về phong cách, vừa sâu sắc về tư tưởng và nội dung thể hiện.
Văn chương của Bác bao gồm cả văn chính luận, truyện, kí và thơ ca và ở bất kì thể loại nào Bác cũng để lại những dấu ấn đậm nét.
Tác phẩm tiêu biểu
Phong cách nghệ thuật
Văn chính luận
–    Tuyên ngôn độc lập (1945)
–     Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)
–     Không có gì quý hơn độc lập – tự do (1959)
–     Mẫu mực, đỉnh cao
–    Có sức thuyết phục về lý: lập luận logic, chặt chẽ, hùng hồn; dẫn chứng chân thực, sinh động, đanh thép.
–  Sức hấp dẫn về tình: giọng điệu linh hoạt; ngôn từ: sử dụng các biện pháp nghệ thuật phù hợp, tạo những câu văn biểu cảm.
Truyện và kí
Đa số sáng tác trong thời gian Bác ở Pháp 1929 – 1935: 
Pari (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925), Con rùa (1925)
–    Tính hiện đại
–   Tính chiến đấu: chủ yếu là dùng ngòi bút trào phúng.
Thơ
Hai loại
–   Thơ tuyên truyền
–  Thơ nghệ thuật (Nhật kí trong tù)
–   Thơ tuyên truyền: nôm na, giản dị, dễ thuộc, dễ nhớ
–  Thơ nghệ thuật: là sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và vẻ đẹp hiện đại
Tác phẩm:
- “Chiều tối” là một trong nhiều bài thơ viết về thiên nhiên của Hồ Chí Minh trong tập Nhật kí trong tù.
- Bài thơ được sáng tác vào mùa thu năm 1942, ở cuối chặng đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào lúc chiều tối giữa núi rừng, là bài thứ 31/134 bài của tập thơ trên.
Tập thơ “Nhật kí trong tù”:
 a) Hoàn cảnh sáng tác:
Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Trong suốt 13 tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 134 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật kí.
 b) Nội dung tập thơ "Nhật kí trong tù":
Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù cũng như xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.
Tập thơ thể hiện tâm hồn phong phú, cao đẹp của người tù vĩ đại. Về phương diện này, có thể coi "Nhật kí trong tù" như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chân dung Hồ Chí Minh trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại có dũng khí lớn, lúc nào cũng nóng lòng sốt ruột hướng về Tổ quốc, khát khao tự do, là chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Bị đày đọa trong lao tù, Người vẫn ung dung, tự tại, tràn đầy tinh thần lạc quan.
Chân dung Hồ Chí Minh còn là hình ảnh bậc đại nhân có tình thương yêu bao la, thấu hiểu cảnh ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi đau của con người.
Tâm hồn Hồ Chí Minh nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên. Tập "Nhật kí trong tù" bộc lộ cốt cách của một thi nhân, một nghệ sĩ lớn. Nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết:
"Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp 
 Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
 Vần thơ của Bác vần thơ thép
 Mà vẫn mênh mông bát ngát tình".
4. Thơ tứ tuyệt Hồ Chí Minh:
- Hồ Chí Minh có sở trường về thơ chữ Hán và thể thơ tứ tuyệt cổ điển.
- Thơ tứ tuyệt Hồ Chí Minh mang màu sắc cổ điển rất đậm đà, thể hiện ở hệ thống đề tài thường hướng về thiên nhiên với bút pháp chấm phá; hình tượng nhân vật trữ tình có phong thái ung dung tự tại, tâm hồn hoà hợp với thiên nhiên.
- Tuy vậy, thơ Hồ Chí Minh không hẳn là thơ cổ điển. Cảnh trong thơ Bác luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Nhân vật trữ tình trong thơ Hồ Chí Minh thường hiện ra ở trung tâm bức tranh phong cảnh với tư thế con người hành động, con người làm chủ.
PHÂN TÍCH BÀI THƠ:
Nội dung:
a) Hai câu thơ đầu: Bức tranh chiều tối nơi xóm núi
Hiện thực của bài thơ được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)
Trong hai câu thơ ấy ta thấy tình và cảnh được phản quang qua ánh mắt của người tù lạc quan, không bao giờ hết niềm tin hy vọng vào cuộc sống. Trước hết là cảnh, chiều tối được vẽ lên với hình ảnh của cánh chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ và chòm mây trôi nhẹ nhàng. Chim bay về tổ có ý nghĩa báo hiệu thời gian của buổi chiều tối. Chính những không gian ấy đã làm cho nhà thơ dâng lên niềm cảm xúc. Cánh chim kia như chở bao nhiêu là nắng chiều. Hình ảnh cánh chim là một hình ảnh cổ điển trong thơ ca, ví như câu:
Chim bay về núi tối rồi.
Đến Truyện Kiều cánh chim mang theo cả thời gian và tâm trạng:
Chim hôm thoi thóp về rừng.
Rồi buổi chiều nghiêng xuống theo cánh chim nhỏ bé trong Tràng giang của Huy Cận:
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Còn hai câu thơ của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa biểu hiện thời gian vừa có ý biểu hiện tâm trạng:
Quyện điệu quy lâm tầm túc thụ.
 	Cánh chim kia chỉ có một mình và nó đang mỏi mệt bay về phía rừng để kết thúc một ngày kiếm ăn mệt mỏi. Qua hình ảnh chim mệt mỏi, người đọc còn tìm thấy sự tương đồng hòa hợp với cảnh ngộ và tâm trạng của nhà thơ. Cánh chim mệt mỏi, mải miết bay về rừng xanh tìm chốn ngủ, nhà thơ cũng mệt mỏi lê bước trên đường đi đày, giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ qua đêm. Sự tương đồng ấy dễ tạo nên sự cảm thông sâu sắc giữa người và cảnh- tấm lòng nhớ nước thương dân. Trong hai câu thơ đầu, cảnh và tâm trạng đều phảng phất buồn. Buồn vì Người đang xa Tổ quốc, nhớ tới đồng chí đồng bào, buồn vì bao công việc cách mạng đang chờ có Bác, ấy thế lại gặp cảnh núi rừng khi chiều tối thì làm sao có thể không buồn. Tâm hồn Bác mang vẻ đẹp của một tấm lòng luôn gắn bó với cuộc đời. Hình ảnh cánh chim, chòm mây trong thơ Bác gợi ta nhớ đến thơ Lý Bạch thời Đường:
“Chim bầy vút bay hết
Mây lẻ đi một mình”
(Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn)
Cánh chim trong thơ Đường của Lý Bạch bay vút vào không gian, như tan biến vào cõi vĩnh hằng. Cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng thái từ bay sang nghỉ để rồi lại tiếp tục cái vòng tuần hoàn của sự sống.
 Trên bầu trời của chốn sơn nước ấy là hình ảnh mây cô độc một mình. Phải chăng mọi thứ nơi đây đang trôi một cách lững lờ chậm chạp? Và cái sự chậm chạp ấy đã làm cho nhà thơ cảm nhận được và bật lên thành những câu thơ. Tuy là cảnh chiều tối bao giờ cũng buồn, tàn tạ thế nhưng ta vẫn thấy được sự hướng về cuộc sống của thơ Bác. Cánh chim kia chỉ là mỏi và về rừng tìm chỗ nghỉ chân để ngày mai khi nắng lên lại bắt đầu một ngày kiếm ăn mới chứ không phải là bay vào cõi vĩnh hằng như thơ Lý Bạch từng nói:
“Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn”
Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người! Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của một con người tinh tế. Nét vẽ hiện đại được thể hiện qua tâm trạng của người tù. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Buổi chiều ấy dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhoà ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Ngay ở những vần thơ bay bổng, nhẹ nhàng giàu sức cảm luyến, lòng người ta vẫn bắt gặp tinh thần “thép” của Bác:
“Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
=> Hai câu thơ thấm thía một nỗi buồn, vì cảnh buồn mà người buồn. Cánh chim bay về tổ gợi niềm ước mong xum họp, chòm mây đơn độc trôi chầm chậm về phía trời xa gợi nỗi đau về thân phận lênh đênh nơi đất khách. Sống trong hoàn cảnh đó bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết, trong nỗi buồn người đọc vẫn thấy ở đó một ý chí và nghị lực, một phong thái ung dung và sự tự do hoàn toàn về tinh thần của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh. Trong hoàn cảnh gian lao Người vẫn mở rộng hồn mình rung cảm với những biến thái của thiên nhiên.
b) Hai câu thơ cuối: Bức tranh cuộc sống con người
Đến hai câu thơ sau Bác chuyển mắt nhìn sang cảnh sinh hoạt đời sống của con người. Nếu như thơ xưa sau bức tranh của cánh chim ngàn mây sẽ là sự xuất hiện những đạo sĩ, thơ hiện đại là những người con gái xinh đẹp mĩ miều thì trong thơ Bác lại xuất hiện cảnh lao động vô cùng bình thường của người dân:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”.
Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ trên chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” (ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
“Chùa xa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay”
 (Hoàng hôn)
Hay:
“Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”
 (Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)
Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiệu của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng được lộ rõ hơn.
Cảm quan biện chứng về thời gian thấm vào từng hình ảnh, sự vật, sự chuyển đổi của các hình ảnh đã gợi lên bước đi thời gian. Trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ có thể đứng xa để nói gần, dùng động để nói tĩnh, dùng sáng để nói tối. Trong bài thơ Chiều tối, Bác không hề nói đến tối mà người đọc vẫn hiểu được bóng tối đang buông xuống ở xóm núi là nhờ có chữ “hồng” ở cuối bài thơ. Trời tối người đi mới nhìn thấy ánh lửa rực hồng lên đến thế:
“Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”
Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sống. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác – màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Với chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, xóa tan đi những mệt mỏi, uể oải, vội vã, nặng nề được diễn tả trong ba câu thơ đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Nó là nhãn tự của bài thơ, nó cân lại bài thơ, chỉ một chữ thôi, với 27 chữ khác nặng đến mấy đi chăng nữa. Chữ “hồng” đã đem đến giữa màn đêm một màu đỏ rực và cái màu đỏ ấy đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình của cô thôn nữ. Nó là màu đỏ trong tình cảm của Bác, là niềm tin, lạc quan yêu đời, là niềm cảm thông chia sẻ với những vất vả, niềm vui của người lao động dù Người đang phải sống trong cảnh tù đầy. Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai.
Cái tình trong hai câu thơ này là niềm yêu cuộc sống, yêu những con người lao động của nhà thơ. Bác từng nói rằng “lao động là vinh quang” và chính vì thế mà Bác đã không để ý gì nữa đến hoàn cảnh bị áp giải của mình để rồi thả hồn vào thiên nhiên cuộc sống con người. Đồng thời qua đó ta thấy được niềm khát khao tự do của Bác. Hình ảnh lò than rực hồng kia đã thể hiện được nguyện vọng làm cho nhân dân ta có đủ cơm ăn áo mặc hay chính là sự tự do ấm nồng. Phải chăng Bác đang nhớ thương sự ấm áp của quê hương mình ?
=> Hai câu thơ cuối cho ta thấy khuynh hướng vận động quen thuộc của hình tượng thơ trong thơ Bác: từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn tới vui ... Hình ảnh con người xuất hiện ở vị trí trung tâm của bức tranh biểu hiện của tinh thần thời đại trong thơ Hồ Chí Minh.
 *Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sống, vừa cổ điển vừa lãng mạn.
3. Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc.
- Sử dụng thủ pháp đối lập, điệp liên hoàn.
- Bút pháp tả cảnh vừa đậm chất cổ điển, vừa mang màu sắc hiện đại.
4. Ý nghĩa:
 Là một trong những bài thơ hay nhất của tập Nhật kí trong tù. Bài thơ tả bức tranh chiều tối nơi núi rừng lúc chiều muộn: Cảnh thiên nhiên núi rừng đang chuyển vào đêm tối khi ánh sáng ban ngày lụi dần và tắt hẳn. Nhưng khi màn đêm buông xuống thì ánh sáng của con người trở thành trung tâm chi phối cái nhìn và cảm xúc của nhân vật trữ tình: “lô dĩ hồng”!
=> Ngoại cảnh cũng là tâm cảnh. Qua đây, người đọc cảm nhận được tâm hồn cao đẹp của Hồ Chí Minh: Nhạy cảm trước thiên nhiên, cuộc sống; lòng nhân ái đến mức quên mình, tinh thần lạc quan cách mạng luôn hướng về sự sống ánh sáng của một thi sĩ – chiến sĩ.
----------------&----------------

Tài liệu đính kèm:

  • docxChieu_toi_Ho_Chi_Minh.docx