Bài giảng Ngữ văn lớp 11 - Văn bản: Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

doc 12 trang Người đăng dothuong Lượt xem 620Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Ngữ văn lớp 11 - Văn bản: Hai đứa trẻ (Thạch Lam)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài giảng Ngữ văn lớp 11 - Văn bản: Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
HAI ĐỨA TRẺ
Thạch Lam
A. Vài nét về tác giả - tác phẩm.
1. Tác giả: Thạch Lam(1910-1942)
a. Cuộc đời:
- Ông là nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.
- Đặc điểm con người: Sống trầm tĩnh và điềm đạm, rất tinh tế. Đặc điểm ấy để lại dấu ấn rõ nét trong sáng tác của ông.
b. Quan điểm sáng tác:
- “Văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên những thứ đen tối trước mặt mà trái lại văn chương là một thứ vũ khí thanh cao để vừa tố cáo vừa thay đổi thế giới giả dối và tàn ác và làm cho lòng người được trở nên trong sạch và phong phú hơn.” Vì thế tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng sáng tác của ông có xu hướng nghiêng về hiện thực mà “Hai đứa trẻ” là một minh chứng cho điều đó.
c. Đặc điểm sáng tác.
- Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn với một lối viết riêng: truyện của ông thường không có cốt truyện, li kì, đặc biệt. Các tình huống truyện, sự kiện chủ yếu mang chức năng bộc lộ trạng thái tâm trạng. ( Các nhân vật thường ít nói năng, hành động. Vì thế truyện ngắn của ông được gọi là truyện ngắn tâm tình giàu sắc thái trữ tình và mang đậm chất thơ)
- Ông là nhà văn mở đường cho kiểu viết truyện ngắn không có cốt truyện li kì.
-Thế giới nhân vật trong truyện của ông thường là lớp trí thức nghèo khổ ở những làng quê nghèo, phố huyện nghèo khổ.
- Không khí chung trong nhiều truyện ngắn của ông thường có nét buồn, tiêu điều, xơ xác. Sự sống như tàn lụi, mòn mỏi.
	è Các đặc điểm trên được thể hiện rõ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
2. Tác phẩm:
- Là truyện ngắn được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Đây là tác phẩm được coi là tiêu biểu nhất trong phong cách viết truyện ngắn của Thạch Lam.
B. Đọc - hiểu tác phẩm
I. Bố cục: 3 phần khá rõ.
1. Phần 1: Từ đầu  tiếng cười khanh khách nhỏ dần về cuối làng. à Cảnh phố huyện lúc chiều xuống. (Tác giả tập trung thể hiện tâm trạng buồn man mác, mơ hồ, khó hiểu của chị em Liên trước cảnh ngày tàn.)
2. Phần 2: “Trời đã bắt đầu đêm tâm hồn Liên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu. à Cảnh phố huyện trong đêm tối. ( Tác giả tập trung mô tả tâm trạng buồn khắc khoải trong cảnh đời chờ mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cho cuộc sống leo lét, tù đọng trong hiện tại.
3. Phần 3: Đoạn còn lại. à Cảnh phố huyện nghèo lúc đoàn tàu từ Hà Nội về và tâm trạng buồn thấm thía về cuộc sống mỏi mòn không thể đổi thay còn những gì tốt đẹp, tươi sáng mà hai chị em Liên mong ước chỉ là kì vọng quá xa xôi giống như một đoàn tàu từ Hà Nội về vụt qua phố huyện.
à Nhận xét chung: Bố cục 3 phần của câu truyện đều tập trung lí giải lí do thức đợi được nhìn chuyến tàu từ Hà Nội về.
II. Nội dung tác phẩm:
1. Tác phẩm tập trung thể hiện cuộc sống lụi tàn leo lét của những kiếp người sống nghèo đói không ánh sáng, không hạnh phúc, không tương lai.
*Mở đầu là cảnh ngày tàn:
- Ánh mặt trời trong buổi chiều ấy được tác giả ví như hòn than sắp tàn.
- Đồng điệu với ngày tàn là chợ tàn: mọi người về hết, tiếng ồn ào cũng mất, trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía Các sự vật cũng tàn tạ: cái chõng cũng sắp tàn.
-Cuối cùng hiện lên giữa cái không gian và thời gian tàn tạ ấy là những mảnh đời, những kiếp người cũng tàn tạ:
	+ Những đứa trẻ đi nhặt rác, tiếp đó là hình ảnh bà cụ Thi điên xuất hiện - người điên thì cuộc đời cũng gần như tàn tạ, vô nghĩa.
	+ Gánh hàng nước của hai mẹ con chị Tí với một gia tài còm cõi - tất cả chỉ trên vai người mẹ và bàn tay đứa trẻ. Hai mẹ con chị ngày thì đi bắt cua, bắt ốc, đêm đến dọn hàng nước nhưng cũng như mọi hôm, hai mẹ con chị cũng không hi vọng vì chi thốt lên: “Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.”
	+ Gánh phở của bác Siêu xuất hiện bằng hình ảnh có vẻ như tươi sáng, đáng giá nhất nhưng lại ế ẩm vì quá xa xỉ, nhiều tiền, không phải ai cũng mua được.
	+ Gia đình bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm không có người nghe.
	+ Nổi bật lên giữa những mảnh đời ấy là hình ảnh hai chị em Liên. Mặc dù họ có một gian hàng để bán nhưng gia tài chẳng đáng bao nhiêu. Với gia tài như thế, họ cũng không hi vọng có một cuộc sống khá giả hơn.
	à NX chung: Có thể nói mỗi con người xuất hiện trong câu truyện đều có một cảnh ngộ riêng nhưng đều mang một đặc điểm chung là tất cả đều sống trong mòn mỏi, buồn chán, bế tắc, không một chút hi vọng gì về cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn nhưng điều quan trọng nhất là tất cả những mảnh đời ấy, cảnh ngộ ấy đã hiện lên qua cái nhìn bùi ngùi, thương cảm của nhà văn. Tất cả được thể hiện rất rõ qua cách hành văn, qua những chi tiết tưởng như ngẫu nhiên: mùi vị của đất, cảnh chợ tàn, hai đứa trẻ nghĩ đến bát phởđặc biệt là chi tiết ánh đèn leo lét nơi ngọn đèn hàng nước của chị Tí cứ láy đi láy lại(xuất hiện 7 lần trong tác phẩm) tạo ra ở người đọc nỗi thương cảm trong khi đó hiện tại là một màn đêm dày đặc đầy bóng tối. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh ngọn đèn ấy gây một ấn tượng day dứt cuối cùng đi vào giấc ngủ của chị em Liên: “Liên thấy mình sống giữa bao sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
2. Nhịp sống ở phố huyện nghèo trong câu truyện cứ lặp đi lặp lại một cách quẩn quanh đơn điệu, tẻ nhạt và tù túng:
- Chị em Liên chiều nào cũng ngồi đếm tiền dù họ chẳng bán được bao nhiêu, ngày nào cũng ngồi trên chiếc chõng sắp tàn và đêm nào cũng kiên nhẫn thức chờ đợi để được nhìn tàu từ Hà Nội về.
- Mẹ con chị Tí dù chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng 
- Gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe thì thỉnh thoảng góp chuyện bằng tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.
à Cảnh sống của họ thật bấp bênh, bế tắc. Chừng ấy người trong bóng tối ngày này qua ngày khác cứ sống trong sự quẩn quanh, tẻ nhạt ấy. Đó là lối sống mà Xuân Diệu từng viết: “Hết cơm mai rồi lại cơm chiều”.
à Đó là cuộc sống của những con người trong ao đời bế tắc, tù túng nhưng cũng chính đó lại là lí do thức đợi tàu của bằng ấy mảnh đời nơi phố huyện nghèo bởi chuyến tàu đêm từ Hà Nội về như đem đến cho họ một thế giới khác hẳn. Đó là hình ảnh của một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc hơn mà bằng ấy con người trong đêm tối mong ước, hi vọng và hướng tới. Qua đó ta thấy được cái nhìn đầy cảm thông, trân trọng với những khát vọng, ước mơ đổi đời của những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ trong phố huyện nghèo mặc dù hi vọng đó chỉ mong manh mơ hồ như chuyến tàu vụt qua. Nó quá xa vời, vô vọng như ánh sao trên trời không thể vươn tới.
3. Tâm trạng nỗ lực, kiên trì thức đợi tàu của chị em Liên.
a. Lí do thức đợi tàu:
- Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vì đó là hình ảnh của tuổi thơ hạnh phúc trong quá khứ đã mất. Nay được nhìn đoàn tàu, hai chị em Liên tưởng như đang được sống lại trong giây lát tuổi thơ hạnh phúc đã mất.
- Vì đó là hình ảnh của một thế giới khác hẳn cuộc sống tăm tối nơi phố huyện. Đó là hình ảnh của tương lai cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc mà hai đứa trẻ hằng mong ước, chờ đợi. Bởi thế mà khi đoàn tàu đi rồi “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”.
- Được nhìn thấy chuyến tàu đêm vì đó là nhịp sống sôi động cuối cùng của một ngày.
- Không chỉ vậy, hai chị em còn thức đợi tàu để có thể bán thêm một ít hàng cho hành khách theo như lời của mẹ.
b. Ý nghĩa của tâm trạng thức đợi tàu:
- Chuyến tàu đêm là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có hạnh phúc, nó hoàn toàn đối lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện.
à Qua tâm trạng thức đợi tàu, Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé sống trong nghèo nàn, tăm tối. Qua tâm trạng đó, nhà văn như muốn lay tỉnh những con người đang sống trong buồn chán, quẩn quanh, bế tắc: “Hãy nỗ lực vươn lên một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc”. Nhà văn hi vọng họ không chấp nhận, không cam chịu đựng sống trong ao đời tù túng, mòn mỏi nơi phố huyện mà hãy chờ đợi, hi vọng hướng tới một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn. Đó cũng là niềm tin của nhà văn: cho dù họ sống trong tù túng, mòn mỏi vẫn không mất đi khát vọng hướng tới cuộc sống hạnh phúc.
à Mặt khác qua tâm trạng đó, nhà văn Thạch Lam lên tiếng tố cáo, lên án xã hội đã vùi dập, đẩy con người vào cuộc sống tăm tối, nhất là trẻ thơ. Cuộc sống nơi phố huyện có khác nào mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch mà hai chị em Liên như hai mầm non mọc trên đó sẽ ra sao? Nó sẽ tàn héo, lụi tàn. àNhà văn lên tiếng đòi thay đổi cuộc sống, đem lại cho những đứa trẻ cuộc sống xứng đáng hơn, có hạnh phúc, có tương lai.
4. Qua “Hai đứa trẻ” nhà văn còn thể hiện tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, đất nước, thiên nhiên.
- Qua câu truyện, tác giả đã dựng lên cái gần gũi, thân thiết, rất gần gũi, thân thiết, gợi cảm.
- Các nhân vật trong câu truyện dù sống trong cuộc sống tù đọng, leo lét, mòn mỏi vẫn thiết tha với cuộc sống nơi phố huyện: “Một mùi ẩm thấp bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”.
- Dù sống trong nghèo khổ, lam lũ, hai đứa trẻ vẫn thiết tha ngắm sao và tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông thần Nông, ngắm những đợt hoa bàng khẽ rơi khe khẽ, vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. 
à Đó là những hình ảnh của quê hương, đất nước rất thân thuộc quanh ta nhưng qua cách hành văn nhẹ nhàng, dịu dàng đầy chất thơ đã trở nên gợi cảm biết bao. Từ đó nhà văn bồi đắp cho người đọc tình yêu quê hương đất nước.
********************************
ĐỀ VĂN ÔN TẬP
Đề 1: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
Đề 2: Phân tích tâm trạng đợi tàu của chị em Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI VÀ BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề 1.
A. LẬP DÀN Ý:
1. Giới thiệu khái quát về Thạch Lam và tác phẩm “Hai đứa trẻ” cùng yêu cầu của đề. (Mở bài) (1.0 điểm)
2. Phân tích hình ảnh thiên nhiên.(3.0 điểm)
a. Những biểu hiện của cảnh vật thiên nhiên: (hình ảnh thiên nhiên)
	+ Màu sắc.
	+ Âm thanh.
	+ Mùi vị.
à Tất cả được thể hiện một cách tinh tế, chân thật à Gợi hồn quê.
b. Nghệ thuật mô tả của tác giả:
- Tác giả không trực tiếp mô tả qua cảm nhận của mình mà qua cảm nhận và quan sát của Liên.
- Được thể hiện bằng những motip của ánh sáng, bóng tối.
- Cảnh vật có một sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc, âm thanh và mùi vị.
- Lối hành văn giàu chất nhạc, gần với thơ ca.
c. Vai trò của bức tranh thiên nhiên:
- Làm nền để trên đó khắc hoạ những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ, bế tắc, quẩn quanh và không ánh sáng.
- Tạo ra cho tác phẩm nét trữ tình riêng biệt trong lối hành văn của nhà văn Thạch Lam và cũng tạo ra cho câu truyện một bối cảnh không gian mang đặc trưng của phố huyện nghèo rất chân thật.
- Gián tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật.
3. Hình ảnh con người.(3.0 điểm)
a. Những biểu hiện của con người trong tác phẩm:
-Trong cảnh chiều tàn: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên.
b. Đặc điểm chung của các mảnh đời:
- Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt.
à Tất cả đều buồn bã, ít hi vọng vào lối sống có tính cầu may nhưng họ đều mong đời có một cái gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện tại nhưng thật mỏng manh, mơ hồ vì đó chỉ là một chuyến tàu.
c. Nghệ thuật:
- Tạo ra được sự tương đồng giữa cảnh vật và con người.
- Dựng lên những mẩu đối thoại vẩn vơ có vẻ ngẫu nhiên nhưng đều gợi tâm trạng buồn chán, thất vọng.
- Các nhân vật được xây dựng trong sự đối lập: giữa cái dày đặc mênh mông của bóng tối với những luồng sáng, giữa quá khứ hạnh phúc và thực tại phũ phàng, rất gợi trạng thái tâm trạng của con người.
4. Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ cảnh vật và con người. (2 điểm)
- Sự đồng cảm, thái độ trân trọng, nâng niu trước niềm tin và hi vọng dù có mơ hồ về tương lai tươi sáng hơn.
- Qua cảnh vật, thiên nhiên và con người, nhà văn gửi vào đó niềm ước mong một sự đổi thay sẽ đến với những mảnh đời tội nghiệp nơi phố huyện 
à Đây cũng là chiều sâu nhân đạo của tác phẩm “Hai đứa trẻ”.
5. Kết luận: Đánh giá và cảm nghĩ.(1.0 điểm)
( 1.0 điểm cho bài viết trình bày khoa học, sáng tạo và ấn tượng)
B. BÀI LÀM THAM KHẢO. 
Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn với lối viết mang phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa mang đậm chất trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu sắc. Mỗi truyện ngắn của ông là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Tuy thời gian cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng cho đến nay có lẽ ông là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn vượt qua được thử thách của thời gian bởi những truyện ngắn xuất sắc mà “Hai đứa trẻ” là một trong số đó.Ở đó, nhà văn không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình huống éo le mà chỉ dựng lên một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hoà vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và mờ nhạt hơn đến mức Liên chỉ còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó nhứng điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm nhận và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cô bé mới lớn lên đã có những ngày tháng sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn, cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trở lại như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện nghèo lúc chiều tối. Nó không những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là còn khơi gợi ở họ những tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật nhẹ nhàng, êm ả nhưng đượm buồn đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa hơn, nó còn gián tiếp giúp người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến, trạng thái tâm trạng của các nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, ta thấy thật khó nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn ngây thơ của chị em Liên như nhuốm vào cảnh vật. Ở đó có một cái gì đó thật nhẹ nhàng, hoà hợp nhịp nhàng giữa nỗi buồn của cảnh vật và nỗi buồn trong tâm hồn con người, nhờ vậy mà nhà văn đã tạo ra cho tác phẩm một chất thơ, chất trữ tình riêng cho truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên “động lòng thương” nhưng không có tiền để cho chúng nó. Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha của hai em mất việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng tạp hoá nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng.
 Để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếc nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mòn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời ấy đều được nhà văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực Thạch Lam không đi vào mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng rất thành công trong việc diễn đạt các trạng thái tâm trạng vừa mong manh, mơ hồ buồn vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc chiều tối.
Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố huyện lúc chiều tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều hôm mà tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó, người đọc không ai không xúc động khi tấm lòng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện. Quả thật, tâm hồn nhà văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình nhiều vẻ nhưng bao giờ cũng đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê hương thật quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà buồn. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần được bồi đắp bởi những kí ức hết sức bình dị như vậy đó.
Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố huyện lúc chiều tối không có nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành độ

Tài liệu đính kèm:

  • dochai_dua_tre_2.doc