BÀI 9: QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG VÀ SAU THỜI KÌ CHIẾN TRANH LẠNH CHƯƠNG V: QUAN HỆ QUỐC TẾ (1945 – 2000) I. MÂU THUẪN ĐÔNG – TÂY VÀ SỰ KHỞI ĐẦU CỦA “CHIẾN TRANH LẠNH” Từ liên minh chống phát xít, sau chiến tranh, Xô – Mỹ nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu và tình trạng “chiến tranh lạnh”. 1. Nguyên nhân: do sự đối lập nhau về mục tiêu và chiến lược. - Liên Xô: chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. - Mỹ: chống phá Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, chống phong trào cách mạng, mưu đồ làm bá chủ thế giới. - Mặt khác, Mỹ lo ngại trước sự ra đời của các nước Đông Âu và sự thành công của cách mạng Trung Quốc. 2. Diễn biến “chiến tranh lạnh” a. Mỹ: Sau CTTG II, là nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử, tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới. - Ngày 12/03/1947, Tổng thống Tru-man gửi thông điệp tới Quốc hội Mỹ khẳng định: sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mỹ và đề nghị viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, biến hai nước này thành căn cứ tiền phương chống Liên Xô. - “Kế hoạch Marshall” (06/1947) của Mỹ đã tạo nên sự đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu TBCN và các nước Đông Âu XHCN. - Tháng 4/1949, Thành lập tổ chức quân sự Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), là liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản phương Tây do Mỹ cầm đầu chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. b. Liên Xô và Đông Âu - Tháng 1/1949: thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa. - Tháng 5/1955, thành lập Tổ chức Hiệp ước Varsava, một liên minh chính trị mang tính chất phòng thủ của các nước XHCN châu Âu. Sự ra đời của NATO và Varsava đã đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. “Chiến tranh lạnh” đã bao trùm toàn thế giới. II. SỰ ĐỐI ĐẦU ĐÔNG – TÂY VÀ NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH CỤC BỘ ÁC LIỆT Trong thời kỳ “chiến tranh lạnh”, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc xung đột quân sự ở các khu vực trên thế giới đều liên quan tới sự “đối đầu” giữa hai cực Xô – Mỹ. 1. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp ở Đông Dương. - Sau CTTG II, thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, nhân dân Đông Dương kiên cường chống Pháp. Từ 1950, khi Mỹ can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, cuộc chiến này ngày càng chịu sự tác động của hai phe. - Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết (7/1954) đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền ở vĩ tuyến 17. Hiệp định Genève là thắng lợi của nhân dân Đông Dương nhưng cũng phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phe. 2. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) - Sau CTTG, Triều Tiên tạm thời chia làm hai miền: Bắc vĩ tuyến 38 do Liên Xô cai quản và phía Nam là Mỹ. Năm 1948, trong bối cảnh chiến tranh lạnh, hai miền Triều Tiên đã thành lập hai quốc gia riêng ở hai bên vĩ tuyến 38: Đại Hàn dân quốc (phía Nam) và Cộng hòa DCNH Triều Tiên (phía Bắc). - Từ 1950 – 1953, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ có sự chi viện của Trung Quốc (miền Bắc) và Mỹ (miền Nam). Hiệp định đình chiến 1953 công nhận vĩ tuyến 38 là ranh giới quân sự giữa hai miền. Chiến tranh Triều Tiên là sản phẩm của “chiến tranh lạnh” và là sự đụng đầu trực tiếp đầu tiên giữa hai phe. 3. Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ ở Việt Nam (1954 – 1975) - Sau năm 1954, Mỹ hất cẳng Pháp, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Việt Nam đã trở thành điểm nóng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm đẩy lùi phong trào GPDT và làm suy yếu phe XHCN. - Chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất, phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe. Cuối cùng, mọi chiến lược chiến tranh của Mỹ bị phá sản, Mỹ phải ký Hiệïp định Paris (1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; phải rút quân và cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp về chính trị đối với Việt Nam. Năm 1975, nhân dân Đông Dương kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ. III. XU THẾ HÒA HOÃN ĐÔNG TÂY VÀ “CHIẾN TRANH LẠNH” CHẤM DỨT 1. Những biểu hiện của xu thế hòa hoàn Đông - Tây Đầu những năm 70, xu hướng hòa hoãn Đông – Tây xuất hiện với những cuộc thương lượng Xô – Mỹ. - Ngày 9/11/1972, hai nước Đức ký Hiệp định về những cơ sở quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức làm tình hình châu Âu bớt căng thẳng. - Năm 1972, Xô – Mỹ thỏa thuận hạn chế vũ khí chiến lược, ký Hiệp ước ABM, SALT-1, đánh dấu sự hình thành thế cân bằng về quân sự và vũ khí hạt nhân chiến lược giữa hai cường quốc. - Tháng 8/1975, 35 nước châu Âu và Mỹ, Canađa đã ký Định ước Hen-xin-ki, khẳng định quan hệ giữa các quốc gia và sự hợp tác giữa các nước, tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh ở châu lục này. - Từ năm 1985, nguyên thủ Xô – Mỹ tăng cường gặp gỡ, ký kết nhiều văn kiện hợp tác kinh tế – khoa học – kĩ thuật, trọng tâm là thuận thủ tiêu tên lửa tầm trung châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược vàhạn chế chạy đua vũ trang. 2. Chiến tranh lạnh kết thúc - Tháng 12/1989, tại Malta, Gorbachyov (Liên Xô) và Bush (Mỹ) tuyên bố chấm dứt “chiến tranh lạnh” để ổn định và củng cố vị thế của mình. *Nguyên nhân khiến Xô – Mỹ kết thúc “chiến tranh lạnh” - Cả hai nước đều quá tốn kém và suy giảm “thế mạnh” nhiều mặt. - Đức, Nhật Bản, Tây Âu vươn lên mạnh, trở thành đối thủ cạnh tranh gay gắt với Mỹ. - Liên Xô lâm vào tình trạng trì trệ, khỉng hoảng. *Ý nghĩa: chiến tranh lạnh chấm dứt mở ra chiều hướng giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột ở nhiều khu vực: Afganistan, Campuchia, Namibia. IV. THẾ GIỚI SAU “CHIẾN TRANH LẠNH” - Từ 1989 – 1991, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Ngày 28/6/1991, khối SEV giải thể và ngày 01/07/1991, Tổ chức Varsava chấm dứt hoạt động thế “hai cực” Yalta sụp đổ, phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á mất đi, ảnh hưởng của Mỹ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi. - Từ năm 1991, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp: + Một trật tự thế giới đang dần dần hình thành. + Mỹ đang ra sức thiết lập một trật tự thế giới “đơn cực” để làm bá chủ thế giới. + Sau “chiến tranh lạnh”, nhiều khu vực thế giới không ổn định, nội chiến, xung đột quân sự kéo dài (Ban-căng, châu Phi, Trung Á). - Sang thế kỷ XXI, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang diễn ra thì vụ khủng bố 11/09/2001 ở nước Mỹ đã đặt các quốc gia, dân tộc đứng trước những thách thức của chủ nghĩa khủng bố với những nguy cơ khó lường, gây ra những tác động to lớn, phức tạp với tình hình chính trị thế giới và trong quan hệ quốc tế. Ngày nay, các quốc gia dân tộc vừa có những thời cơ phát triển thuận lợi, đồng thời vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt. (Đề thi Cao đẳng 2011) Những sự kiện nào diễn ra từ đầu những năm 70 đến cuối những năm 80 của thế kỉ XX chứng tỏ xu thế hòa hoãn giữa hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa? Trong bối cảnh đó, quan hệ giữa các nước Đông Dương và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có gì thay đổi? Mặc dù chiến lạnh vẫn tiếp diễn, nhưng từ đầu những năm 70 xu hướng hòa hõan Đông Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô-Mĩ. Trên cơ sở những thỏa thuận Xô –Mỹ, ngày 09-11-1972, hai nước Đức là Cộng hòa liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức đã ký kết tại Bon hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Xô –Mỹ đã thỏa thuận về việc hạn chế vũ khí chiến lược và ngày 26 - 05 kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng thủ tên lửa (ABM), sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT 1). Đầu 08-1975, 33 nước châu Âu cùng Mĩ và Canađa đã kí Định ước Hensinki, khẳng định những nguyen tắc trong quan hệ giữa các quốc gia như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới, giải quyết hòa bình các tranh chấp, nhằm bảo đảm an ninh châu Âu và sự hợp tác giữa các nước về kinh tế, khoa học và kĩ thuật, bảo vệ môi trường, Cùng với các sự kiện trên, từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô – Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao, nhất là từ 1985 khi Goocbachop lên cầm quyền ở Liên Xô. Hầu như hàng năm đều diễn ra các cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ hai nước. Nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế và khoa học kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những thỏa thuận về thủ tiêu tên lửa tầm trung ở châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược cũng như hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước. Tháng 12-1989, trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Manta, tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Góocbachop và tổng thống Mĩ Busơ đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh. Chiến tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng và những điều kiện giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới. Trong bối cảnh đó, quan hệ giữa các nước Đông Dương và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng thay đổi: + Từ 1975 đến 1979 Việt Nam cố gắng mở rộng quan hệ song phương với các nước trong khu vực. Đến cuối năm 1978, quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN được thiết lập và phát triển qua việc kí các hiệp định kinh tế, thương mại, khoa học kĩ thuật, hàng không và hàng hải. + Từ 1979 đến 1989, quan hệ giữa ASEAN và các nước Đông Dương hết sức căng thẳng do vấn đề Campuchia. + Từ 1989 đến nay, sau khi vấn đề Campuchia được giải quuyết theo phương pháp hòa bình, các nước ASEAN đã phát triển quan hệ với các nước Đông Dương. Tháng 07-1995, Việt Nam gia nhập ASEAN. Tháng 07-1997, Lào gia nhập ASEAN. Tháng 04-1999, Campuchia được kết nạp vào tổ chức này. Như vậy, từ 5 nước sáng lập ban đầu, ASEAN đã phát triển thành 10 thành viên. Từ đây ASEAN đẩy mạnh họat động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định để cùng phát triển. (Đề ĐH – C 2013) Nêu những sự kiện chính trong mười năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai để làm rõ quá trình xác lập cục diện hai cực, hai phe – tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cục diện đó là gì? *Những sự kiện chính trong 10 năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến quá trình xác lập cục diện hai cực, hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. - Sự kiện được xem là khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô, gây nên tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ là thông điệp của tổng thống Truman đọc tại quốc hội Mĩ ngày 12.3.1947, tổng thống Mĩ khẳng định: sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho hai nước Hi Lạp và Thỗ Nhĩ Kì. - Đầu tháng 6.1947, Mĩ đề ra “kế hoạch Mácsan” với khoản viện trợ 17 tỉ USD để giúp các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh. Thông qua kế hoạch này, Mĩ còn nhằm tập hợp các nước Tây Âu vào liên minh quân sự chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Việc thực hiện “kế hoạch Mácsan” đã tạo nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Tây Âu TBCN và các nước Đông Âu XHCN. - Tháng 1 – 1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) để hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa. - Ngày 4.4.1949, Mĩ thành lập khối quân sự: Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Đây là liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản phương Tây do Mĩ cầm đầu nhằm chống Liên Xô và các nước XHCN. - Để khôi phục đất nước sau chiến tranh, tháng 1.1949, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế nhằm thực hiện sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước XHCN. - Tháng 5.1955, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava, là một liên minh chính trị - quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước XHCN châu Âu. - Sự ra đời của NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava là những sự kiện đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm cả thế giới. *Nguyên dân chủ yếu dẫn đến cục diện hai cực, hai phe: - Từ liên minh cùng nhau chống phát xít, sau chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu, dần dần đi tới tình trạng chiến tranh lạnh. - Trước hết, đó là sự đối lập về mục tiêu và chiến lược của hai cường quốc. Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của CNXH và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước XHCN, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Mĩ hết sức lo ngại ảnh hưởng to lớn của Liên Xô cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, đặc biệt là sự thành công của cách mạng Trung Quốc với sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. CNXH đã trở thành một hệ thống thế giới, trải dài từ Đông Âu tới phía Đông châu Á. - Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ đã vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, vượt xa các nước tư bản khác, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử. Do đó, Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới, như tổng thống Truman công khai tuyên bố: Ngày nay Hoa Kì là một quốc gia mạnh, không có một quốc gia nào mạnh hơn Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế, nước Mĩ chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới.
Tài liệu đính kèm: