Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Vật lý ở trường THCS - Nguyễn Thị Thanh Tâm

doc 30 trang Người đăng duyenlinhkn2 Ngày đăng 23/11/2025 Lượt xem 18Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Vật lý ở trường THCS - Nguyễn Thị Thanh Tâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Vật lý ở trường THCS - Nguyễn Thị Thanh Tâm
 Phòng giáo dục và đào tạo huyện Thanh oai
	Trường THCS Phương Trung
 . . 
 Đề tài : TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG DẠY . HỌC VẬT LÝ
Người thực hiện:Nguyễn Thị Thanh Tâm
Năm học :2014-2015
Phòng GD ĐT Thanh Oai	 Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trường THCS Phương Trung	Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học 2014-2015
 SƠ YẾU LÍ LỊCH 
 Họ và tên 	: Nguyễn Thị Thanh Tâm
 Ngày, tháng , năm sinh: 9-12-1982
 Năm vào ngành : 1-11-2012
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị công tác : Trường THCS Phương Trung 
 Trình độ chuyên môn : Đại học lý
 Hệ đào tạo : Từ xa
 Bộ môn giảng dạy: Vật lý 8 và vật lý 9
 Trình độ Ngoại ngữ : 
 Danh hiệu thi đua đã đạt :
 PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài : 
1.1.Cơ sở lí luận 
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của ban chấp hành trung ương khóa VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Cùng với sự đổi mới phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam có những biến đổi sâu sắc về mục tiêu, nội dung sách giáo khoa và cả phương pháp giáo dục, một trong những đổi mới cơ bản hiện nay là đổi mới mục tiêu dạy học ở trường phổ thông THCS. Ngành giáo dục đã tiến hành cải cách sách giáo khoa ở các bậc học. Sách giáo khoa mới được biên soạn trên hình thức đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở lấy học sinh làm trung tâm. Nhìn chung, giáo viên và học sinh đã quen dần với nội dung và phương pháp mới của sách giáo khoa mới. Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí theo chương trình đổi mới sách giáo khoa thì học sinh phải chủ động tiếp thu kiến thức, đào sâu kiến thức bài học thông qua sự hướng dẫn của giáo viên, chủ yếu là thực nghiệm hơn thuyết giảng, nhằm giúp các em tự giác học tập, độc lập suy nghĩ và tích cực học tập trên lớp và ở nhà để giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu những kiến thức đã được thầy cô giảng dạy.
 Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật quan trọng. Sự phát triển của khoa học vật lí gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Vì thế, những hiểu biết và nhận thức về vật lí có giá trị to lớn trong đời sống và sản xuất, đặt biệt trong công cuộc xây dựng đất nước.
 Bên cạnh đó, môn vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường trung học cơ sở. Chương trình vật lí trung học cơ sở có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vật lí cơ bản, ở trình độ này bước đầu hình thành ở học sinh những kĩ năng cơ bản phổ thông vá thói quen làm việc khoa học, góp phần tạo ra ở các em năng lực nhận thức và các phẩm chất nhân cách mà mục tiêu giáo dục đề ra.
 Đổi mới phương pháp dạy nhất là tăng cường hướng dẫn học sinh thực hành thí nghiệm, giáo viên phải làm sao phát huy tính tích cực chủ động lĩnh hội tri thức của học sinh. Giáo viên với vai trò là người chỉ đạo giúp học sinh giải quyết vấn đề mới nẩy sinh hoặc mâu thuẫn nhận thức.
1.2. Cơ sở thực tế:
Sau một thời gian giảng dạy Vật lý ở trường THCS Phương Trung ,THCS Liên Trung (Đan Phượng )và đến thăm quan một số trường khác trong huyện nữa,tôi nhận thấy một số điều sau:
Vật lý cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: “ĐỨC-TRÍ-THỂ-MĨ”. Ở những mức độ khác nhau . Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, nhưng hiện nay, việc dạy học Vật lý chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn Vật lý, sợ học môn Vật lý . Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học Vật lý phải ghi nhớ quá nhiều kiến thức khô khan, không chịu vận dụng vào thực tế.
	Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân môn Vật lý mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Vật lý chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ môn khoa học, cần phải nghiên cứu nghiêm túc, có sự so sánh vận dụng linh hoạt ,gắn kết liên môn với các môn học khác và vận dụng càng nhiều với thực tế thì càng dễ dàng tiếp thu,ghi nhớ sâu được kiến thức . Giáo viên chưa tích cực thay đổi phương pháp dạy học trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập tẻ nhạt,giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
Từ thực trạng của vấn đề trên, tôi chọn giải pháp "tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Vật lý ở trường THCS" để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để giải quyết một vấn đề cụ thể. Nhằm giúp giáo viên Vật lý có thể áp dụng vào giảng dạy môn Vật lý một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn Vật lý trong chương trình cấp THCS.
2. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm 
 Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến cách học vật lý và thực hành vật lý trong nhà trường làm nảy sinh tâm lí không thích học vật lý và lúng túng trong các tiết học có thí nghiệm . Để góp phần khắc phục hạn chế đó trong phạm vi đề tài này, tôi không có tham vọng lớn chỉ mong rằng qua các tiết có sử dụng tích hợp kiến thức liên môn với các môn học như Ngữ Văn,lịch sử , sinh học,mĩ thuật...Và qua nhiều tiết học có sự kết hợp như vậy học sinh thêm yêu thích học Vật lý, kết quả học tập của học sinh được nâng cao hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu 
 Để nghiên cứu được đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
3.1.Phương pháp đọc tài liệu:
	 Phương pháp đọc tài liệu là phương pháp tìm tòi thu thập thông tin cần thiết. Đây là phương pháp không thể thiếu khi nghiên cứu các đề tài khoa học. Tôi đã thu thập và đọc tài liệu sau:
 1. Sách giáo viên vật lí 9 – NXB giáo dục.
 2. Sách giáo khoa vật lí 9,sinh học,văn học,mĩ thuật,lịch sử các khối lớp – NXB giáo dục, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí THCS – NXB giáo dục
 3.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III – NXB giáo dục
4.Tài liệu tập huấn giáo viên môn vật lí về dạy học có tích hợp liên môn ,kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng- BGD và ĐT
 Và rất nhiều các bài viết hay,có nội dung liên quan đến giải quyết đề tài trên internet.
3.2. Phương pháp dự giờ, rút kinh nghiệm: 
 Tôi đã dự giờ các anh chị đồng nghiệp trong trường và các trường xung quanh tiếp thu cách dạy học tích hợp liên môn trong dạy học Vật lý
3.3. Phương pháp điều tra thực tiễn:
Tôi đã sử dụng phương pháp này để điều tra thực trạng học môn vật lí đặc biệt là về kĩ năng thực hành thí nghiệm của học sinh.
Về phía giáo viên còn khó khăn khi dạy tiết học có thí nghiệm thực hành
3.4. Phương pháp kiểm tra , đối chiếu, so sánh:
Tôi thường xuyên kiểm tra kĩ năng thực hành của học sinh, so sánh, đối chiếu qua từng giai đoạn nghiên cứu nhằm rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 
- Học sinh lớp 9A1 trường THCS Phương Trung 
- Phạm vi nghiên cứu : Trong suốt năm học 2014-2015
5. Kế hoạch nghiên cứu 
Tháng 9-10 : khảo sát thực tế 
Tháng 11-12: Nghiên cứu tìm giải pháp khắc phục những tồn tại về kĩ năng làm thí nghiệm vật lý
Các tháng còn lại áp dụng những giải pháp đã tìm để nâng cao kĩ năng làm thí nghiệm vật lý kết hợp sử dụng nhiều dụng cụ thí nghiệm sẵn có ,sưu tầm,tự làm.
 PHẦN II. NỘI DUNG
I-CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
	1- Cơ sở lí luận:
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Vật lý nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với môn Vật lý, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau  “Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này”
	Từ năm học 2012 – 2013, bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng. 
2. Phân tích thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Về phía học sinh:
 Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.
Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
2.2. Về phía giáo viên:
Giáo viên luôn có tinh thần sáng tạo, tìm tòi giải pháp cho học sinh thí nghiệm thực hành để các em làm quen dần với khoa học, qua đó nhằm rèn thêm kĩ năng và thao tác trên dụng cụ.
Bên cạnh đó, khả năng của giáo viên còn hạn chế trong việc tự làm thiết bị dạy học, hạn chế về thời gian, kinh phí
Đối với giáo viên thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do:
Một là, trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó;
Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học;
Vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT): Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
Giáo viên có gặp khó khăn?
Khó khăn của giáo viên hiện nay nếu có chỉ là vấn đề tâm lí. Về thực chất thì không có nhiều khó khăn cả về kiến thức lẫn phương pháp dạy học.
Hơn nữa, từ nhiều năm nay, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo tích hợp nhiều nội dung giáo dục vào quá trình dạy học các môn học trong trường phổ thông như: giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục pháp luật; giáo dục phòng chống tham nhũng; giáo dục chủ quyền quốc gia, tài nguyên và môi trường về biên giới, biển, đảo; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai; giáo dục an toàn giao thông...
Về dạy học kiến thức liên môn, Bộ cũng đã tổ chức tập huấn giáo viên về rà soát chương trình, SGK, xây dựng các chủ đề liên môn.
Để chuẩn bị cho năm học này, vừa qua Bộ GD-ĐT cũng đã tập huấn giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh, trong đó tập trung xây dựng các chủ đề dạy học trong mỗi môn học và chủ đề tích hợp, liên môn phù hợp với phương pháp dạy học tích cực và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương, nhà trường. Bên cạnh tập huấn giáo viên cốt cán....
Tới đây, Bộ sẽ ban hành văn bản "Hướng dẫn nội dung sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn và tham gia diễn đàn trên mạng về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong trường phổ thông".
Mục đích là để nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn trong trường phổ thông, tập trung vào thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh; đồng thời giúp cho cán bộ quản lý, giáo viên bước đầu chủ động lựa chọn nội dung, xây dựng các chủ đề dạy học trong mỗi môn học và các chủ đề tích hợp, liên môn.
Mặt khác xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp với các chủ đề theo hình thức, phương pháp, kỹ thuật dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh, tạo tiền đề tích cực cho việc triển khai thực hiện đổi mới chương trình và SGK giáo dục phổ thông sau năm 2015.
2.3 .Về cơ sở vật chất:
Ngay từ đầu năm, nhà trường đã kiểm tra, giám sát việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học. Trường có trang bị thiết bị thực hành nhưng chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, không có phòng học thí nghiệm nên cũng khó khăn cho giờ dạy Vật lý
Hầu như chưa có định hình, kinh nghiệm về dạy học có tích hợp liên môn trong dạy học Vật lý
2.4.Những ưu điểm và bất cập khi thực hiện vấn đề nghiên cứu 
* Những ưu điểm : 	
Việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã và đang được áp dụng trong nhà trường giúp học sinh phát huy được vai trò chủ động của mình trong việc lĩnh hội kiến thức, kích thích khả năng sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Cùng với việc đổi mới về phương pháp, một số phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại cũng đã được áp dụng vào quá trình giảng dạy của giáo viên trên lớp giúp giờ học sinh động và mang lại hiệu quả cho giờ học.Các em học sinh đang trong lứa tuổi thích khám phá ,thích tham gia vào các hoạt động sáng tạo như tự tạo đồ dùng thí nghiệm đơn giản hoặc tìm kiếm ở xung quanh cuộc sống hằng ngày.
 Hàng năm, Sở giáo dục và Đào tạo Hà Nội , phòng giáo dục huyện Thanh Oai đều có tổ chức các chuyên đề tập huấn cho giáo viên môn Vật lý với mục đích nâng cao chất lượng học tập ở bộ môn này.
* Những bất cập 
 Chúng ta đã và đang đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Song, một thực tế đáng buồn là còn nhiều thầy cô giáo chưa thật quan tâm đến cải tiến phương pháp giảng dạy cho phù hợp đối tượng và đặc trưng bộ môn, nhất là đối với môn Vật lý,không thể thiếu những thí nghiệm Giờ học vật lý phần lớn là dạy chay, không sử dụng đồ dùng thí nghiệm nên rất tẻ nhạt,khô khăn cứng nhắc,học sinh không tích cực học tập,mà học lấy lệ ,học chống đối ,các em viết cho đủ bài nếu giáo viên nhắc nhở.Bản thân các em học sinh rất thích được tham gia vào các hoạt động chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm trước các tiết học ,nhất là những đồ dùng đơn giản mà các em có thể mang từ nhà hoặc tự làm nên nếu như giáo viên dặn dò tỉ mỉ và hướng dẫn các em cuối các tiết học chuẩn bị cho tiết học sau thì các em rất tích cực tham gia.
Khi được phân công dạy môn Vật lý tại lớp 9A1, ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực tế, kết quả như sau: 
Số học sinh thích học môn vật lý là: 10 em 
Số học sinh thấy bình thường là : 18 em 
Số học sinh sợ học vật lý là : 17 em
3. Các giải pháp : Một số nội dung tích hợp cụ thể:
	3.1 Tích hợp với môn Ngữ Văn: 	Trong bài 48.MẮT, SGK Vật lý 9,giáo viên có thể tích hợp với môn Ngữ Văn để tạo nên những cảm xúc mới lạ và ghi nhớ kiến thức của giờ học một cách hết sức tự nhiên mà vẫn sâu sắc , nó góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh.Giáo viên có thể vận dụng một số bài thơ ,câu thơ trong thơ Quang Dũng có hình tượng đôi mắt để thay đổi không khí học tập thú vị hơn,bớt khô khan máy móc,chẳng hạn như: Trương Quang Cảm đã từng có bài viết rất hay : 
 Trong thơ Quang Dũng hình tượng đôi mắt cứ lặp đi lặp lại với nhiều dáng vẻ khác nhau. Năm 1948  rời Tây Tiến, ngồi ở Phù Lưu Chanh trong nỗi nhớ khôn nguôi về chốn cũ, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ Tây Tiến. Bài thơ đã khắc họa chân dung người lính Tây Tiến bằng hai bút pháp tả thực và lãng mạn. Ở bút pháp tả thực, người lính Tây Tiến hiện lên với bao nỗi gian khổ nghiệt ngã như bị bệnh sốt rét và thương hàn khiến tóc người nào người  nấy đều rụng hết và da người nào người nấy bủng như da chanh xanh như tàu lá. Còn ở bút pháp lãng mạn tác giả tả đôi mắt của họ mở to ,sáng quắc, trừng trừng, dữ dội tỏ rõ khí phách oai hùng. Thế nhưng bên trong họ lại  có trái tim đong đầy thương nhớ tình tứ:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bên cạnh đôi mắt oai hùng, ta còn bắt gặp đôi mắt  tràn đầy tình cảm với bao thương nhớ,  biết buồn cô quạnh trong những sáng heo may, biết mong chờ bên dòng sông  mưa rơi lớp lớp.Đó là hình ảnh đôi mắt trong bài thơ Đôi bờ được sáng tác 1948:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp  lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai?
Khác với hai đôi mắt trên,  ở bài Mắt người Sơn Tây, tác giả sáng tác năm 1949 trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đi vào hồi quyết liệt,khói lửa chiến tranh mịt mù. Ngoài tên đề nhấn mạnh đến Mắt người Sơn Tây, trong bài thơ tác giả còn nhắc đi nhắc lại hai lần hình tượng đôi mắt. Một là cùng với vầng trán yêu thương vương mang cả đất trời quê hương, đôi mắt bấy giờ lại tỏa ra ánh buồn dìu dịu của hồn quê Tây Phương:
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?...
Hai là hình tượng  đôi mắt của nỗi niềm u uẩn lưu lạc khôn khuây trong những ngày quê  hương đầy bóng giặc:
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Cùng năm 1949 tác giả còn sáng tác bài Lính râu ria. Bài thơ vừa mang tính  tự sự vừa mang tính trữ tình. Ở tính tự sự Quang Dũng kể không gian là bên bờ sông vắng , một cái quán tản cư nhỏ.Thời gian là một đêm khuya khoắt.Những người lính đi ngang qua đó , người thì gọi cà phê, người thì gọi thuốc lá... Có một anh lính tuổi vừa ba mươi hỏi chị chủ quán bán cho li rượu và hỏi cháu bé ngủ ở đâu? Rồi anh bế con chịKế đến tác giả tả đứa bé năm tháng  tuổi  với cái má hồng như trái mận, nụ cười chúm chím dễ thương sao. Đặc biệt Quang Dũng cũng không quên tả đôi mắt. Đôi mắt của đứa bé sáng trong đẹp, nhìn trông như  sao trời:
Khuya khoắt bờ sông vắng  
Lửa hồng quán tản cư
Lính mấy chàng vất vả
Tìm sống một đêm thơ
Một người kêu cà phê
Một  anh gọi thuốc lá
Một người nhìn sau trước
.
Chị ơi!  Cháu ngủ đâu
Rồi anh bế con chị
Anh lim dim cúi đầu
Cô bé cười chúm chím
Mắt non nhìn như sao
Đôi mắt nhìn như sao
Má hồng như trái mận
Và cũng năm 1949, trong một chuyến đi công tác ở Đan Nê, nhà thơ đã cảm xúc sáng tác bài Nhớ. Quang Dũng nhớ đến một mái nhà tranh ở cuối làng. Nhớ đến gia cảnh rất nghèo khó. Nhớ một  mẹ già đang bị sốt. Nhớ bữa cơm đạm bac mà ngon miệng. Nhớ mẹ già nghèo tốt bụng tiền cơm không lấy. Và đặc biệt nhớ đôi mắt sáng trong tươi trẻ của đứa cháu gái mồ côi:
Cháu mồ côi - cháu gái
Mắt sáng trong đang tập đánh vần
Trong bài Hồng Phú Châu Giang sáng tác năm 1957, nhà thơ ghi nhận lại một chặng  dài của thời gian thay đổi của quê hương từ những ngày kháng chiến chống Pháp cho đến những năm sau hòa bình 1954. Trong tất cả những ghi nhận khó quên ấy, Tác giả cũng không quên chú ý đến đôi 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_kien_thuc_lien_mon_trong_gian.doc