Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng Anh Lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh

doc 9 trang Người đăng duyenlinhkn2 Ngày đăng 09/07/2022 Lượt xem 331Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng Anh Lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Tiếng Anh Lớp 3 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH 
LỚP 3 NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay xã hội đang ngày càng phát triển, việc học tập, tiếp thu, lĩnh hội tri 
thức nhân loại đang là nhu cầu cấp thiết của từng người. Để mỗi người dễ dàng tiếp cận với nguồn tri thức dồi dào đó, Tiếng Anh là phương tiện không thể thiếu. Do đó, việc học tiếng Anh đang ngày càng được xã hội quan tâm hơn, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bởi vì tiếng Anh là ngôn ngữ chung nhất được sử dụng và được giao lưu. Mỗi môn học có những phương pháp giảng dạy, đặc thù riêng. Đối với việc giảng dạy môn Ngoại ngữ nói chung và với môn Tiếng Anh nói riêng thì phương pháp giảng dạy và phương tiện hỗ trợ trong giảng dạy phải là những vấn đề cần được đặt lên hàng đầu. Để có một tiết học Tiếng Anh có chất lượng tốt, tạo cho học trò một sự hứng khởi khi tiếp thu bài học thì giáo viên phải áp dụng những phương pháp độcđáo, hấp dẫn. Ngoài ra đồ dùng trực quan là công cụ quan trọng và không thể thiếutrong mỗi tiết dạy Tiếng anh để hỗ trợ giáo viên truyền đạt những kiến thức mới, nhằm giúp học sinh dễ dàng hiểu và tiếp thu những kiến thức mà giáo viên truyền đạt. Do đó việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn như băng, đĩa, máy chiếu, tranh ảnh, những vật thật, mô hình  không thể thiếu cho sự truyền tải thông tin và giảng dạy kiến thức mới cho học sinh.
Xuất phát từ vấn đề này, tôi cho rằng việc sử dụng đồ dung trực quan là vô 
cùng cần thiết nhằm tạo sự tập trung, theo dõi của học sinh vào các vấn đề được 
trình bày, tạo sự hứng thú và khơi dậy trí tò mò muốn khám phá những vấn đề mới. 
Từ đó giáo viên sẽ có cơ hội truyền tải và học sinh sẽ lĩnh hôi kiến thức mới một 
cách tích cực và hiệu quả. Từ thực tế việc sử dụng đồ dung trực quan trong giảng 
dạy và đã được được nhiều kết quả tốt. Tôi xin mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh 
nghiệm: "Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy tiếng anh lớp 3 nhằm phát 
huy tính tích cực học tập của học sinh”
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
2.1. Cơ sở lý luận:
Đổi mới phương pháp giảng dạy “Lấy học sinh làm trung tâm” là phương 
pháp giảng dạy lấy học sinh làm chủ thể trong quá trình tìm hiểu khai thác kiến 
thức. Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thì đồ dùng trực quan có một vai 
trò vô cùng quan trọng giúp học sinh có khả năng tư duy cao độ, tập trung quan sát 
tìm hiểu và nghiên cứu thông qua kênh hình, xây dựng lên kiến thức bài học.
Người thầy đóng vai trò làm người hướng dẫn, thiết kế những hoạt động học 
tập giúp học sinh tự thu thập được thông tin và xử lý thông tin, tự phát hiện ra chủ 
điểm và nội dung kiến thức chính của bài học mới. Tổ chức cho học sinh khai thác 
triệt để kiến thức, xây dựng kiến thức tình huống thông qua kênh hình. Đồ dùng 
trực quan sẵn có để thu thập thông tin mới qua quan sát hình vẽ, vật thật, mô hình 
sẵn có quanh ta để rút ra kết luận hoặc khắc ghi cấu trúc, ngữ nghĩa sâu và lâu hơn. 
Học sinh tích cực tham gia và tìm hiểu nghiên cứu kiến thức, không còn tình 
trạng học sinh ngồi thụ động tiếp thu những kiến thức bài học do giáo viên trình 
bày trong sách giáo khoa mà chủ động tham gia vào quá trình tìm hiểu, tiếp nhận 
kiến thức và phát hiện ra nội dung, kiến thức bài học mới.
2.2. Thực trạng
2. 2.1. Thuận lợi:
- Có sự quan tâm của ngành cấp trên, Ban giám hiệu, Phụ huynh và giáo viên.
- Học sinh đang dần có cái nhìn tích cực hơn với môn học này và đa số các em 
rất ham thích học.
- Biên chế giáo viên đảm bảo theo nhu cầu phát triển của mỗi nhà trường; đồng 
thời giáo viên được đào tạo theo chuẩn, có sự nhiệt tình, năng lực và có tích luỹ 
được kinh nghiệm.
2.2.2. Khó khăn:
- Còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho bộ môn: phòng lab, sách tham khảo 
- Còn một số ít HS gặp khó khăn trong việc tiếp cận và nắm bắt ngôn ngữ mới. 
Từ đó, có ảnh hưởng không ít đến chất lượng dạy-học.
- Hầu hết HS ở vùng nông thôn, phát âm tiếng địa phương nên khi đọc tiếng 
Anh không chuẩn, thường có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá.
2.3. Các biện pháp tiến hành khi sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy:
2.3.1. Chuẩn bị:
- Muốn sử dụng tốt đồ dùng trực quan trong giảng dạy Anh Văn trước hết 
giáo viên phải biết được các loại đồ dùng trực quan và tác dụng của nó trong việc 
tìm hiểu và khai thác kiến thức ở từng bài học.
- Đồ dùng trực quan trong giảng dạy bao gồm: vật thật, mô hình, tranh vẽ 
+ Vật thật là những đồ vật cần thiết có ở xung quanh ta và rất gần gũi với đời 
sống hàng ngày hoặc dụng cụ học tập như thước kẻ, bút chì, sách vở, bàn ghế, giá 
sách 
+ Đồ dùng hình tượng là những hình vẽ, băng, đĩa.
+ Vật thay thế là các mô hình bằng nhựa hoặc đất sét.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài học 
trước để chuẩn bị đồ dùng cho phù hợp với nội dung tiết dạy và đồ dùng đó phải 
được sử dụng một cách triệt để, tiết dạy đó sẽ hiệu quả hơn. Có như vậy đồ dùng 
trực quan mới có giá trị để học sinh khai thác và tìm hiểu kiến thức tốt hơn trên cơ 
sở quan sát trao đổi nhóm để khắc sâu kiến thức.
Dùng đồ dùng trực quan phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn Anh Văn góp 
phần làm học sinh dễ hiểu và tiếp nhận kiến thức dễ hơn, tạo sự thoải mái cho học 
sinh làm cho các em không còn ngại học ngoại ngữ nói chung và Anh Văn nói 
riêng. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy thì người dạy đóng vai trò là chỉ 
đạo, học sinh làm chủ trong quan sát và chủ động tìm hiểu nghiên cứu chủ điểm 
cũng như kiến thức của bài học mới, tạo được hứng thú và kích thích tính tò mò, 
hiếu động, ham tìm hiểu ở học sinh. Sau khi quan sát đồ dùng trực quan, người dạy 
là người hướng dẫn gợi ý để học sinh xây dựng và hướng tới nội dung chính, kiến 
thức trọng tâm của bài.
Chính vì lẽ đó, đối với giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học là một vấn 
đề quan trọng không thể thiếu được, nó quyết định đến việc thành công cho tiết dạy 
và cả quá trình dạy học, giáo viên cần có kế hoạch nghiên cứu chương trình để 
chuẩn bị đồ dùng.
2.3.2. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan:
- Đây là phương pháp giáo viên tổ chức để cho học sinh quan sát đồ dùng 
trực quan, tìm hiểu kiến thức thông qua đồ dùng để xây dựng tình huống, đoán ngữ 
nghĩa của từ, dự đoán các hiện tượng, sự việc, thu thập thông tin dữ liệu để hướng
học sinh vào chủ điểm bài học hoặc làm bài tập để xử lý thông tin. 
- Để phát huy việc sử dụng đồ dùng trực quan tốt nhất cần kết hợp và linh 
hoạt sử dụng một số phương pháp cơ bản sau đây:
* Phương pháp làm mẫu (Model, Action, Talk - Mat) nhấn mạnh vào việc 
hành động và làm mẫu theo các cấu trúc và mẫu câu rồi luyện kỹ, giúp cho học sinh 
hình thành kỹ năng sử dụng tiếng Anh một cách tối đa trong một lượng thời gian tối thiểu. Phương pháp này tương đối phù hợp với hoàn cảnh dạy tiếng Anh ở Việt 
Nam vì có những ưu điểm sau:
+ Tiết kiệm được thời gian, học sinh hiểu ngay được nội dung, ngữ liệu qua 
động tác của giáo viên.
+ Học sinh hiểu được mình phải làm gì khi luyện tập.
+ Giúp giáo viên dùng toàn tiếng Anh để giảng giải một cấu trúc, một hoạt 
động mà không cần viện đến tiếng mẹ đẻ.
* Phương pháp phản ứng thể chất toàn bộ (Total Physical Response –
TPR) còn gọi là phương pháp nghe hiểu (The Comprehension Approach -CA) 
nhằm giúp học sinh phản ứng toàn diện bằng động tác dựa trên sự liên kết giữa 
ngôn ngữ và hành động tự nhiên, cách làm này giúp học sinh liên tưởng và nhớ lâu 
hơn.
+ Đặc điểm của phương pháp TPR:
- Giúp học sinh phát triển khả năng hiểu ngôn ngữ trước khi nói ngôn ngữ ấy.
- Khả năng hiểu ngôn ngữ thông qua động tác cơ thể.
- Không ép buộc học sinh nói nếu các em chưa sẵn sàng.
+ Kỹ thuật chủ đạo của phương pháp TPR:
- Dùng mệnh lệnh chỉ đạo hành vi của học sinh trên lớp;
- Thay đổi vai giao tiếp: Cho học sinh đổi vai, làm theo mệnh lệnh và tập ra 
lệnh.
- Sử dụng chuỗi hành động (các mệnh lệnh có liên quan tới nhau).
* Phương pháp chức năng (Functional Approach - FA) nhấn mạnh khả 
năng sử dụng ngôn ngữ bằng những mẫu câu trong ngữ cảnh, tình huống cụ thể và 
phù hợp. 
* Phương pháp giao tiếp (Communicative Approach - CM) coi ngôn ngữ sử 
dụng trong lớp học phải mang tính thông báo để trao đổi ý tưởng và tình cảm giữa 
giáo viên - học sinh và học sinh với học sinh.
* Phương pháp nghe - nói (Audio - lingual Approach - ALA) nhấn mạnh 
vào khả năng phát âm và cú pháp của ngôn ngữ.
* Phương pháp ngữ pháp - cấu trúc (Grammatical Structural Approach) 
nhấn mạnh vào sự tiếp thu một hệ thống ngữ pháp.
Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên cũng cần nhấn mạnh vào 
kỹ năng giao tiếp, lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em giao tiếp theo 
nhóm, theo cặp và cả lớp, xây dựng môi trường thân thiện hợp tác.
Do vậy giáo viên cần:
- Tăng cường sử dụng tiếng Anh trên lớp học để tiến tới việc có thể sử dụng 
tiếng Anh như một ngôn ngữ chính trong việc học tiếng Anh (các lời chào, thăm 
hỏi, mệnh lệnh) nói với các em càng nhiều tiếng Anh càng tốt để tạo cho các em 
hình thành thói quen nghe và hiểu.
- Quan tâm hơn nữa tới việc sử dụng tiếng Anh như một phương tiện giao 
tiếp thực sự hướng tới độ chuẩn xác về ngữ âm và ngữ điệu.
- Khuyến khích học sinh sử dụng tiếng Anh thường xuyên hơn (chào, hỏi, xin 
phép ).
- Khuyến khích học sinh chuyển đổi ra tiếng Anh những điều các em nói 
bằng tiếng Việt;
- Trả lời câu hỏi của học sinh bằng Tiếng Anh.
- Tạo môi trường ngôn ngữ để làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp bằng ngoại ngữ 
để thúc đẩy học sinh tham gia tích cực vào hoạt động giao tiếp.
- Giúp học sinh khắc phục mặc cảm tự ti, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại
nói, lời nói bằng cách động viên, chỉ dẫn, sửa lỗi nhẹ nhàng chứ không ngắt lời khi 
học sinh đang nói, không phê phán khi các em làm sai.
- Chỉ sử dụng tiếng Việt để hỗ trợ cho việc giải thích một số từ khó, khái 
niệm trừu tượng hoặc các hiện tượng ngữ pháp mới.
- Tập trung dạy ngôn ngữ giao tiếp trên cơ sở hành động lời nói chứ không 
dạy ngữ pháp thuần tuý.
- Chuẩn bị các hoạt động đa dạng sao cho phù hợp với các đối tượng khác 
nhau.
- Chuẩn bị nhiều tình huống giao tiếp liên quan đến từng hành động lời nới.
- Cung cấp cho học sinh ngữ liệu tối thiểu, đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng.
Để tránh tình trạng “dịch” từng từ một hay từng câu nói một, khi dạy ngữ liệu 
mới, đồ dùng dạy học, nghe - nhìn cần được sử dụng trong việc thiết lập tình huống giao tiếp hay giới thiệu ngữ nghĩa của ngữ liệu mới. Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh, đồ vật thật, điệu bộ, giọng nói hay hành động để giúp học sinh liên hệ giữa âm thanh, giọng nói của băng đĩa hay của chính giáo viên. Bằng cách này giáo viên có thể gây hứng thú và hướng sự chú ý của các em vào học tập, đồng thời có sự lien tưởng và ghi nhớ trong ký ức những gì được nghe thấy. 
Riêng đối với một số ngữ liệu có tính trừu tượng, không thể dùng đồ dùng học tập 
dạy học, nghe, nhìn giáo viên có thể dùng Tiếng Việt đơn giản, ngắn gọn để nói 
nghĩa tương đương. Tuy nhiên không nên lạm dụng Tiếng Việt giảng dạy ngoại ngữ 
mà nên giải thích nghĩa Tiếng Anh thông qua câu, từ đơn giản.
3. KẾT LUẬN:
3.1. Bài học kinh nghiệm:
- Giới thiệu từ mới thông qua vật thật hoặc tranh ảnh.
- Dạy cách phát âm thông qua việc nghe băng kết hợp với việc mô phỏng âm 
thanh bằng thao tác, hành động của người dạy.
- Đồ dùng trực quan phải đa dạng, sinh động, gần gũi với các em.
- Khi sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên nên chú ý tới chủ điểm, tới đối 
tượng học sinh để đề ra yêu cầu phù hợp. Hướng dẫn cho học sinh hiểu rõ nội dung 
yêu cầu. Song phải mang tính logic, mặt khác giáo viên phải tôn trọng sự độc lập, 
sáng tạo của học sinh.
3.2. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
- Với học sinh: 
+ Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động, sáng tạo, phù hợp với từng 
bài tôi thấy lớp học sôi nổi hơn, sự gần gũi giữa thầy và trò được cải thiện rõ rệt. 
+ Những em học yếu không còn ngại và sợ học môn Tiếng anh nữa. Các em 
đã bạo dạn hơn và có ý thức học tập để xây dựng lớp học phong phú, sôi nổi.
- Với người dạy:
+ Sử dụng thời gian trong tiết dạy hợp lý hơn.
+ Các kết quả thu lượm được từ việc quan sát lắng nghe giáo viên sẽ nắm
được các điểm yếu, điểm mạnh của học sinh.
3.3. Khả năng ứng dụng triển khai:
- Áp dụng chuyên đề vào các tiết giảng dạy Tiếng anh có đủ đồ dùng trực 
quan và sử dụng triệt để đồ dùng trực quan sẽ khai thác kiến thức sâu hơn, thực tế 
hơn, học sinh sẽ tích cực và yêu thích môn học hơn. Giáo viên Tiếng anh sẽ đạt 
được những nguyện vọng, niềm tin mà bản thân yêu cầu đối với học sinh của mình. 
- Học sinh có thể rèn luyện khả năng quan sát và tư duy thông qua việc quan 
sát những vật thật trong lớp học, môi trường xung quanh các em. Nếu được tận 
dụng hiệu quả những vật thật sẳn có như trên giáo viên có thể tiết kiệm được việc 
đầu tư tranh ảnh không cần thiết góp phần tiết kiệm kinh phí cho nhà trường cũng 
như của giáo viên. Phát huy tính tích cực của học sinh, giúp các em yêu thích môn 
Tiếng anh hơn. Các em sẽ có cơ hội nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng kiến thức tốt 
hơn trong học tập. Bản thân tôi sẽ áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong suốt 
quá trình giảng dạy của mình.
3.4. Đề xuất ý kiến:
- Với bộ môn Tiếng Anh ở Tiểu học cần cung cấp thêm nhiều đồ dùng trực 
quan sinh động hơn nữa.
- Đảm bảo đủ Bộ tranh ảnh và bộ thẻ từ.(vì kênh hình trong tranh đa dạng, phong phú ).
- Cần tổ chức những buổi ngoại khóa với những vật thật như những mô hình 
bằng nhựa hoặc bằng đất sét nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học 
tập.
Trên đây là một số đề xuất để triển khai, ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm
được hiệu quả hơn. Khi trình bày sáng kiến đề này, tôi muốn phát huy tính tích cực 
của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức. Đồng thời tôi cũng rất mong sự góp ý 
của Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, Tổ chuyên môn để tôi đạt hiệu quả tốt hơn trong công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Tân, ngày 5 tháng 11 năm 2014
 DUYỆT CỦA BGH Người viết sáng kiến 
 Phạm Thị Hương

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_do_dung_truc_quan_trong_giang.doc