Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 2

doc 14 trang Người đăng duyenlinhkn2 Ngày đăng 22/07/2022 Lượt xem 259Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 2
RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2
I/ Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DẠY TẬP ĐỌC LỚP 2:
- Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc” đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy) đọc có ý thức (không hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác. - Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại nêu không hiểu điều đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng, hay chính nhờ hiểu đúng mới đọc đúng. Vì vậy trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. - Thông qua việc dạy đọc, làm cho học sinh thích đọc và thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. - Đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kỹ năng đọc, phân môn tập đọc còn có nhiệm vụ: + Làm giàu kiến thức ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. + Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh. + Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh. 
II-THỰC TRẠNG ĐỌC VÀ DẠY TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG T.H HIỆN NAY: - Việc dạy đọc bên cạnh những thành công còn có những hạn chế: Học sinh chưa đọc được như ta mong muốn, đọc chưa đúng ở những chỗ ngắt nhịp vì các em chưa hiểu được nội dung câu thơ câu, văn nên các em ngắt nghỉ không đúng với nội dung biểu cảm của tác giả. - Học sinh chưa hiểu cách nói văn chương, các em thường ngắt giọng giữa từ ghép, các em chưa biết phân biệt chỗ nào cần lên giọng, chỗ nào cần xuống giọng. Khi đọc câu hỏi, giọng đọc các em còn đều đều chưa toát lên được nội dung câu hỏi. Khi đọc các câu hội thoại các em chưa phân biệt được giọng của nhân vật, giọng của tác giả. - Giáo viên tiểu học còn lúng túng các bước khi dạy tập đọc theo chương trình mới, vận dụng quy trình còn máy móc, dạy còn theo sách giáo viên, sách thiết kế bài soạn chứ không chú ý đến đặc thù của địa phương. - Cần đọc bài tập đọc như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, diễn cảm hơn. Làm sao để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu, Đó là những trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ tập đọc. Từ thực trạng đó nên dẫn đến giờ dạy hiệu quả chưa cao mà trong chương trình chưa có hướng dẫn cụ thể, chưa đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy. 
III-ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC TẬP ĐỌC LỚP 
2 1- Xác định mục tiêu nội dung dạy học bài tập đọc: 
- Xác định mục tiêu giờ học tức là xác định nội dung để viết mục I “Mục tiêu” trong giáo án. Chúng ta biết rằng mục tiêu của phân môn tập đọc là các kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Vì vậy, khi xác định mục tiêu giờ tập đọc ta phải chỉ ra được tốc độ, những nội dung luyện đọc đúng, đọc diễn cảm, đọc hiểu như thế nào. 
- Xác định nội dung dạy đọc càng cụ thể chi tiết bao nhiêu thì việc tiến hành giờ dạy càng có hiệu quả bấy nhiêu. Để xác định mục tiêu, nội dung dạy học chúng ta phải trả lời được: Sau giờ học học sinh đạt được những gì? Cụ thể đó là trả lời các câu hỏi: 
+ Học sinh cần đọc bài tập đọc trong thời gian bao lâu (để xác định tốc độ đọc, luyện kỹ năng đọc nhanh). 
+ Những từ ngữ, câu nào học sinh luyện đọc thành tiếng, chúng cần được đọc lên như thế nào và vì sao lại chọn những từ ngữ, câu đó để luyện đọc. 
+ Toàn bài cần đọc với giọng điệu chúng như thế nào, tốc độ, cường độ, cao độ, trường độ ra sao. 
+ Những từ ngữ, câu nào cần dạy nghĩa và dạy nghĩa chúng ra sao? Những tình tiết nào của câu chuyện cần tìm hiểu và tìm hiểu chúng như thế nào? 
+ Nội dung chính của bài tập đọc là gì, ý nghĩa của bài văn, bài thơ, câu chuyện là gì? Học sinh được giáo dục điều gì sau khi đọc bài tập đọc. 
2- Rèn các kỹ năng đọc: 
2.1. Đọc mẫu: 
- Giáo viên phải có kỹ năng “đọc” thành thục. Như ta đã biết chất lượng đọc của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó vai trò hướng dẫn của giáo viên rất quan trọng. Kỹ năng đọc là mục đích cuối cùng chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi giờ học. Giáo viên phải tạo được cho mình kỹ năng đọc thành thục. Giáo viên phải biết cách xác định từ, câu quan trọng đến việc hiểu được nghĩa, ý, tình của văn bản. Giáo viên không thể hình thành ở học sinh kỹ năng gì mà bản thân mình không có, không thể gặt hái được những gì mà ta không có khả năng gieo trồng. Vì vậy, trong dạy học chúng ta không có quyền đòi hỏi học sinh làm những gì mà bản thân mình chưa làm được. Giáo viên không thể luyện cho học sinh đọc hay đọc diễn cảm mà bản thân mình chưa xác định được bài văn cần đọc với giọng điệu như thế nào. Khi dạy học không có hiệu quả, nhiều giáo viên đổ lỗi cho phương pháp mà không biết rằng “Phương pháp chỉ là hình thức của sự tự vận động bên trong của chính nội dung”. Một trong các phương pháp dạy học quan trọng nhất ở Tiểu học là phương pháp luyện theo mẫu. Vì vậy, không biết làm mẫu thì không thể tiến hành giờ dạy. Do đó, khi soạn bài, giáo viên phải xác định được những kỹ năng đọc cần có và luyện tập cho mình thành thục những kỹ năng này. Khi soạn bài, giáo viên phải tự làm trước những gì mà học sinh phải làm trên lớp: Đọc thành tiếng, giải nghĩa từ, trả lời những câu hỏi về nội dung bài. 
- Giáo viên có sự hiểu biết về chương trình SGK và các tài liệu dạy học. - Giáo viên phải tìm hiểu vốn “đọc” của học sinh, đặc điểm, trình độ của học sinh. Việc tìm hiểu học sinh là một quá trình lâu dài đã được tiến hành trước đó. Để tiến hành dạy học tập đọc, chúng ta phải hiểu rõ học sinh của mình, đặc điểm, trình độ của học sinh, các em đã có những kiến thức kỹ năng đọc gì, cụ thể chúng ta phải biết rõ học sinh của mình có hứng thú với những bài tập đọc nào, phát âm có gì sai chuẩn, khó phát âm, những từ ngữ nào, câu nào trong bài khó đọc đúng, đọc hay. Để luyện đọc hiểu, chúng ta cần nắm được học sinh của mình chưa hiểu, khó hiểu những từ ngữ nào, nội dung nào trong bài Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung và kỹ năng dạy đọc. Chẳng hạn, những lỗi phát âm lệch chuẩn của học sinh giúp giáo viên xác định được những từ ngữ trong bài cần luyện đọc đúng chính âm. 
2.2. Đọc thành tiếng: Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng người đọc một lúc đóng hai vai: Một vai - và mặt này thường được nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin, bằng chữ viết, vai thứ hai là người trung gian để truyền thông tin, đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái sản sinh văn bản. Vì vậy khi đọc thành tiếng người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công tạo cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ để cho mình cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn cho tất cả những người này nghe rõ. Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ “lý nhí” giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học sinh đứng lên bảng để đối diện với những người nghe tư thế đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, 2 vai phải được mở rộng và cân bằng hai tay. 
2.3. Luyện đọc đúng: - Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị), ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu) .
 - Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng việt. + Đọc đúng các phụ âm đầu s/x, tr/ch
 + Đọc đúng các chính âm: Có ý thức phân biệt để không đọc “nhanh” thành “nhăn”, “huệ” thành “hệu”. 
+ Đọc đúng các âm cuối + Đọc đúng các thanh có các lỗi phát âm địa phương như lẫn thanh (~) và thanh sắc (/) VD: Không đọc Dũng thành Dúng.
 + Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt hơi, ngữ điệu câu, cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ làm hai. VD: không đọc: Ông già bẻ gẫy từng chiếc một/cách dễ dàng.
+ Không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm: Ví dụ không đọc:
 - Em cầm tờ/lịch cũ Ngày hôm qua đâu rồi 
+ Không tách quan hệ từ “là” với danh từ đi sau nó, ví dụ không đọc: - Mẹ là/ngọn gió của con suốt đời:
- Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: Ngắt hơi khi gặp dấu phẩy, nghỉ hơi khi gặp dấu chấm (với dấu chấm nghỉ hơi 1 quãng bằng khoảng thời gian đọc 1 chữ, ngắt hơi ở dấu phẩy bằng nửa quãng nghỉ hơi sau dấu chấm). Đọc đúng các ngữ điệu câu: Lên giọng ở cuối câu hỏi, xuống giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm, với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra còn phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu.. Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm. - Trình tự luyện đọc đúng: Trước khi lên lớp giáo viên phải dự tính để ngăn ngừa các lỗi khi đọc. Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học sinh địa phương dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó để luyện đọc trước. 
- Khi muốn luyện đọc 1 từ nào đó, đầu tiên giáo viên đọc mẫu trước rồi cho cả lớp đọc đồng thanh, cuối cùng cho các em đọc cá nhân các tiếng, từ khó này. Với những câu mà giáo viên dự tính sẽ có nhiều em đọc sai phách câu, GV cũng tiến hành như vậy, cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả đoạn bài. 
2.4. Luyện đọc nhanh: Đọc nhanh là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê, a ngắc ngứ, vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi có không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp thời. Vì vậy đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. 
+ Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự kiểm tra của giáo viên của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc độ đọc như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc. 
2.5. Luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc: Trước hết phải luyện cho học sinh không bỏ sót tiếng, không thêm tiếng không lạc giọng. Học sinh lớp 2 khi đọc có em còn bỏ sót tiếng hoặc lạc giọng. Vì các em này chưa làm chủ được tia mắt. Với những học sinh này giáo viên phải quay lại với việc sử dụng que trỏ hoặc thước đặt dưới từng dòng kẻ để học. 
2.6. Dạy cho học sinh đọc đúng ngữ điệu, ngắt giọng đúng: Trong giờ dạy tập đọc giáo viên phải hướng dẫn đến giáo dục cho học sinh yêu Tiếng việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu. Trong việc biểu đạt nội dung thế nhưng hiện nay ở trường tiểu học mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt là ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những ký do khiến cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa lưu loát. Vì các em không hiểu đúng văn bản được đọc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố này. Khi đọc các bài văn xuôi chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ đoạn. Khi đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Vì vậy đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Mỗi bài đọc nhằm chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp chỗ ngắt giọng dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai khi đọc, cũng là xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài tập đọc cụ thể. Từ đó dạy đọc đúng hiểu đúng các bài tập đọc ở Tiểu học. 
2.7. Rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh: Muốn học sinh có năng lực có kỹ năng đọc hiểu tốt. Giáo viên phải có định hướng, có kế hoạch sắp xếp thời gian tìm hiểu bài nhiều hơn, thời gian luyện đọc thành tiếng mà phải coi trọng chất lượng đọc. - Mỗi giờ lên lớp giáo viên xác định nội dung đọc hiểu cho các em. Tuỳ theo khả năng nhận thức của từng vùng để dẫn dắt câu hỏi cho học sinh hiểu nghĩa của từ “chìa khoá” “câu khoá” trong bài, tóm tắt được nội dung của đoạn, bài, phát hiện ra những yếu tố và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Có nhiều bài chỉ có thể dạy “đọc nhớ”, khó dạy đọc hiểu, nội dung bài rời rạc không có chiều sâu, với những bài tập đọc hiện hành ở lớp 2 tôi tạm chia làm 2 nhóm mức độ tương ứng với 2 nhóm dạy đọc hiểu: 
+ Tiếp nhận văn bản văn chương 
+ Hiểu những yếu tố văn chương Để HS hiểu được các yếu tố văn chương cũng cần phải có cách lựa chọn phù hợp VD: Bài “Mẹ” (Tuần 12/Lớp 2) có câu cuối “Mẹ là ngọn gió của con suốt đời” là câu thơ có nhiều chất văn nhất. Nếu giáo viên bình giảng câu này, diễn giảng về tình thương sự chăm sóc của mẹ đối với con thì sẽ không đọng lại gì trong tâm trí học sinh lớp 2. Ngược lại nếu yêu cầu học sinh giải thích câu thơ lại quá khó. Vì thế nên áp dụng cách hay hơn bằng hình thức kiểm tra phiếu trắc nghiệm. Ta có thể xây dựng phiếu bài tập trắc nghiệm như sau: Đánh dấu x vào ô trống trước câu trả lời em cho là đúng: 
“Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”  
Mẹ ngồi quạt cho con suốt đời  
Sự chăm sóc, tình thương của mẹ theo con suốt củ cuộc đời.  
Mẹ đối với con lúc nào cũng mát như ngọn gió  
Mẹ là người nuôi dưỡng chăm sóc con từ nhỏ đến lớn. 
2.8. Đọc thầm: Cũng như khi ngồi đọc (vì ít khi đứng đọc) thành tiếng, tư thế ngồi đọc thầm phải ngay ngắn khoảng cách giữa mắt và sách 30-35cm.
 - Kỹ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc to ® đọc nhỏ ® đọc mấp máy môi (không thành tiếng) ® đọc hoàn toàn bằng mắt, không mấp máy môi (đọc thầm) giai đoạn cuối lại gồm 2 bước: Di chuyển mắt theo que trỏ hoặc ngón tay rồi đến chỉ có măt di chuyển. Giáo viên phải tổ chức quá trình chuyển từ ngoài vào trong này. Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn và bài. - Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức đọc hiểu. Kết quả của đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Tức là toàn bộ những gì được đọc. Như tâm lý ngôn ngữ học đã chỉ ra để hiểu và nhớ những gì được đọc người đọc không phải xem tất cả các chữ đều quan trọng như nhau mà có thể và cần sàng lọc để giữ lại những từ “chìa khoa” những nhóm từ mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ để giúp ta hiểu được nội dung của bài. Trong những bài khoa văn chương đó là những từ dùng “đắt” tạo nên giá trị nghệ thuật của từ có tín hiệu nghệ thuật. Đó là những từ giàu màu sắc biểu cảm như các từ láy, những từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng, có sự chuyển nghĩa văn chương. Tiếp đó cần hướng dẫn học sinh đến việc phát hiện ra những câu quan trọng của bài. Những câu nêu ý nghĩa chung của bài. 
IV-TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRONG GIỜ TẬP ĐỌC LỚP 2: 
A. Kiểm tra bài cũ: 
*Mục đích: Kiểm tra và củng cố việc đọc thành tiếng và đọc hiểu nội dung bài đã học. 
*Hình thức thực hiện: 
- Kiểm tra đọc thành tiếng: 
+ Yêu cầu học sinh đọc một đoạn hoặc cả bài đã học. 
+ Yêu cầu thực hiện một bài tập đọc thành tiếng: Nhận xét giọng đọc, ngữ điệu của đoạn vừa đọc. 
- Kiểm tra đọc hiểu: Yêu cầu thực hiện một bài tập đọc hiểu về nội dung đoạn bài vừa đọc. 
*Thời gian kiểm tra tiến hành từ 3 - 5 phút. Số lượng kiểm tra có thể từ 2-3 học sinh. 
B. Bài mới: 
1- Giới thiệu thiệu bài: Có thể dùng tranh ảnh, đặt câu hỏi nêu vấn đề để gây hứng thụ tạo nhu cầu đọc bài ở học sinh không nên nói hết nội dung bài trong phần giới thiệu vì sẽ áp đặt nội dung trước cho học sinh trong khi lẽ ra nó là cái đích mà học sinh cần khám phá ra được. 
2- Luyện đọc: 
a) Đọc mẫu: 
*Yêu cầu: Đưa ra mẫu về đọc thành tiếng. Đây chính là cái đích, mẫu hình kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Đồng thời giáo viên dùng giọng đọc mẫu cho học sinh có một biểu tượng ban đầu về nội dung văn bản. Lúc này đọc mẫu lại là phương tiện cho học sinh bước đầu làm quen với văn bản để chiếm lĩnh nội dung của nó. Bước đọc mẫu rất quan trọng vì cách tiếp xúc trực tiếp ấn tượng đầu tiên rất quan trọng. Nó quyết định việc học sinh yêu thích hay không yêu thích văn bản được đọc. Yêu cầu đọc mẫu phải đảm bảo chất lượng, đọc đúng chuẩn: Đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Khi đọc mẫu giáo viên cầm sách theo đúng quy cách. Giáo viên phải ổn định trật tư, tạo cho học sinh tâm thế hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo để theo dõi bài đọc. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát được cả lớp. Trong khi đọc, giáo viên cần thỉnh thoảng nhìn lên học sinh để tạo được sự giao cảm, thu hút học sinh. Mặc dù vậy, việc hướng vào người nghe trong khi đọc không được làm bài đọc bị gián đoạn muốn thế, ở nhà giáo viên phải đọc kỹ bài nhiều lần. 
b) Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện đọc, kết hợp giải nghĩa từ 
b1/ Đọc từng câu: 
- Học sinh tiếp nối nhau đọc từng câu đến hết bài (có thể đọc khoảng 2 lượt bài). - Kết hợp sửa lỗi phát âm cho HS 
- Luyện phát âm từ khó, dễ lẫn. 
b2/ Đọc từng đoạn trước lớp: - GV chia đoạn - Gọi 1 nhóm đọc trước lớp ( mỗi em 1 đoạn), kết hợp HD đọc các câu khó (HD ngắt giọng) và HD thể hiện tình cảm qua giọng đọc (phần này có thể xử lý qua 1 – 2 lượt HS đọc). 
- Gọi tiếp nhóm khác đọc, kết hợp giải nghĩa từ mới, từ khó bằng các hình thức: Tìm từ mới, giải thích từ mới, tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đặt câu với từ mới,...) b3/ Đọc từng đoạn trong nhóm: 
- Lần lượt từng HS trong nhóm ( bàn, tổ,...) đọc, HS khác trong nhóm lắng nghe. - GV nên có quy ước với HS để tiện theo dõi. 
b4/ Thi đọc giữa các nhóm: (Lưu ý: Với lớp 3 bước này chuyển xuống phần luyện đọc lại) 
- Các nhóm thi đọc ( ĐT, CN, từng đoạn, cả bài). GV cần tạo điều kiện để nhiều HS được tham gia đọc. Bố trí HS có trình độ tương đương thi với nhau. Có thể tổ chức trò chơi luyện đọc ( đọc tiếp sức, truyền điện, theo vai,...) 
- Lớp lắng nghe và nhận xét. b5/ Lớp đọc ĐT(1- 2 đoạn hoặc cả bài)( với những văn bản không đọc được ĐT thì bỏ bước này) 
3- Hướng dẫn tìm hiểu bài: GV hướng dẫn HS đọc thành tiếng hoặc đọc thầm từng đoạn và tìm hiểu bài dựa theo các câu hỏi trong SGK.
 * Lưu ý: - Khi Y/c HS đọc thành tiếng cần kết hợp y/c HS cả lớp cùng đọc thầm để theo dõi.
 - Trước khi y/c HS đọc thầm, cần giao nhiệm vụ (đặt câu hỏi) cho HS. - GV có thể chẻ nhỏ các câu hỏi trong SGK, hoặc thêm câu hỏi dẫn dắt, gợi mở giúp HS dễ trả lời hơn. 
4- Luyện đọc lại / Học thuộc lòng (nếu SGK yêu cầu) 
- Luyện đọc lại được thực hiện sau khi HS đã nắm được nội dung bài đọc. 
- Hình thức tổ chức: Thi đọc ( giữa các cá nhân)
– Y/c của bước này: Luyện cho HS đọc trôi chảy, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, đúng mức và b

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_2.doc