Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử (Phần Lịch sử thế giới 8-9)

doc 33 trang Người đăng duyenlinhkn2 Ngày đăng 13/07/2022 Lượt xem 654Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử (Phần Lịch sử thế giới 8-9)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử (Phần Lịch sử thế giới 8-9)
 MỤC LỤC
Phiếu nhận xét, xếp loại SKKN.....................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài...........................................................................................5
Mục đích nghiên cứu đề tài....................................................................7
Phương pháp nghiên cứu.......................................................................7
PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lý luận của vấn đề............... ........................................................9
Cơ sở thực tiễn của vấn đề............... .....................................................10
Thực trạng của vấn đề...........................................................................10
Các biện pháp để giải quyết vấn đề................................................................9
Hiệu quả của SKKN....................................................................................16
PHẦN KẾT LUẬN
Kết luận ..................................................................................................18
Bài học kinh nghiệm...............................................................................19
Dự kiến về cải tiến cấu trúc thơi gian tới ...............................................19
Đề nghị, kiến nghị....................................................................................19
Tài liệu tham khảo......................................................................................21
 PHÒNG GD & ĐT YÊN MỸ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG THCS MINH CHÂU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tên đề tài: 
 Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học 
 môn lịch sử	 
Tác giả: 	 Ngô Thị Thoan
Chức vụ: 	 Giáo viên Dạy môn lịch sử 
Bộ phận công tác: 	Tổ xã hội
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học- kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành GD- ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối.
 Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. 
 Như chúng ta đã biết, môn Lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên và từ đó xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai.
 Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã nhấn mạnh:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD-ĐT khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy- học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”
 Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn). Vì vậy việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục. 
 Qua nhiều năm giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn bởi vì đối tượng là học sinh THCS thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở bậc tiểu học và các em ở lớp trên thì cao hơn các em ở lớp dưới. Nếu được khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc THPT – nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
Từ trước tới nay, đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích tính cực của học sinh trong học tập Lịch sử từ bậc THCS đến Đại học. Tuy nhiên, những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối lớp cụ thể. Vì vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn Lịch sử, đó là khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử (phần Lịch sử thế giới lớp 8- 9) với mục đích là góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các thầy cô giáo, các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học. Những vấn đề mà tôi nêu ra trên cơ sở được trang bị những kiến thức cơ bản nhất, phương pháp dạy học Lịch sử cũng như việc khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử 8- 9 (phần Lịch sử thế giới). 
Nếu thầy giáo chỉ làm chức năng truyền thụ kiến thức thì sẽ thực hiện phương châm “Thầy giáo là trung tâm’’ học sinh sẽ thụ động tiếp nhận kiến thức, sẽ học thuộc lòng những gì thầy giáo giảng và cho ghi cũng như trong sách đã viết. Đó chính là cách giảng dạy giáo điều, nhồi sọ biến giáo viên thành người thuyết trình, giảng giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã đọc. Có nhà giáo dục đã gọi đó là cách “Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh”.
 Chúng ta đều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống nhất gồm hai khâu có tác dụng tương hỗ nhau: giảng dạy và học tập. Cả việc giảng dạy và học tập đều là một quá trình nhận thức, tuân theo những quy luật nhận thức. Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo viên và học sinh đối với việc truyền thụ và tiếp thu một nội dung khoa học được quy định trong chương trình với những phương pháp dạy học thích hợp, những phương tiện hình thức cần thiết để đạt được kết quả nhất định đã đề ra.
 Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Nhà giáo dục người Đức là Disterverg đã khẳng định đúng đắn rằng: “Người giáo viên tồi truyền đạt chân lí, người giáo viên giỏi dạy cách tìm ra chân lí”.
 Điều này có nghĩa rằng người giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở việc đọc cho học sinh ghi chép những kiến thức có sẵn, bắt các em học thuộc lòng rồi kiểm tra điều ghi nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong sách giáo khoa. Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản (bao gồm kiến thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật, nguyên lí và các phương pháp nhận thức) làm cơ sở định hướng cho việc tự khám phá các kiến thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống. 
Vì vậy, việc cho các em quan sát kênh hình rồi từ đó các em rút ra những nhận xét, tiếp thu tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là con đường phát triển tối ưu của giáo dục - đó chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu quả của giáo viên, điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học sinh. Đây là tính ưu việt của phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh được gọi là phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ hay còn gọi là kiểu dạy học truyền thống.
Xuất phát từ tình hình thực tế đất nước, đặc biệt là trước công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như vũ bão, việc chỉnh lý chương trình giáo dục và thay đổi nội dung sách giáo khoa là một vấn đề rất cấp thiết và vô cùng quan trọng. Chính vì lẽ đó mà “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Nhằm để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và chương trình giáo dục đổi mới hiện nay, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với hướng dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”. Một trong những phương pháp đặc trưng bộ môn Lịch sử là phương pháp “Khai thác kênh hình” trong giảng dạy. 
Từ thực tế cho thấy chuẩn bị “Khai thác kênh hình” làm dụng cụ trực quan là công tác rất khó khăn, rất công phu và rất tốn kém như: 
+ Sử dụng “Khai thác kênh hình” như thế nào để đảm bảo tính trực quan.
+ Sử dụng “Khai thác kênh hình” như thế nào để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy Lịch sử lại là một vấn đề càng khó khăn hơn. Đó cũng chính là vấn đề của mỗi người giáo viên Lịch sử đã và đang quan tâm hiện nay, với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Lịch sử. Vì vậy mà trong bài viết này tôi xin trình bày: “Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử ( phần Lịch sử thế giới 8-9)” sẽ giúp cho việc dạy học theo phương pháp mới và việc thực hiện chương trình giáo dục mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn như mong muốn.
2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
 Về lí luận và thực tiễn, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc sử dụng đồ dùng trực quan trong học tập môn Lịch sử là điều cần thiết và quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục. Đó chính là lí do chủ yếu để nghiên cứu vấn đề này. Nội dung gồm:
a. Cơ sở lí luận của việc khai thác kênh hình trong dạy-học lịch sử
b. Thực tiễn của việc khai thác kênh hình trong trong dạy -học ở trường 
THCS.
c. Những biện pháp sư phạm để phát huy hiệu quả của việc khai thác kênh hình .
3. Phương pháp nghiên cứu:
	a- Đối tượng nghiên cứu.
	- Nội dung chương trình SGK, sách bài tập lịch sử THCS .
	- Sách hướng dẫn giáo viên, phân phối chương trình lịch sử THCS, thuật ngữ lịch sử và các tài liệu có liên quan
	- Đối tượng HS THCS đặc biệt là HS lớp 8- 9.	
	- Giáo viên dạy bộ môn và thực trạng việc khai thác kênh hình .
ở trường THCS hiện nay.
	b- Nhiệm vụ, mục đích.
	- Nhìn rõ thực trạng việc khai thác kênh hình ở trường THCS những ưu điểm, nhược điểm.
	- Nguyên tắc và phương pháp khai thác kênh hình ở trường THCS.
	- Rút ra những yêu cầu chung và bài học kinh nghiệm khi khai thác kênh hình trong giảng dạy gắn với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
	c- Phương pháp nghiên cứu.
 - Điều tra, phán đoán.
	- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
	- Phương pháp thực nghiệm.
	- Phương pháp khảo sát đánh giá.
 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
 Cơ sở lí luận của việc khai thác kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Việc xây dựng cơ sở lí luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 8- 9 là lớp cuối bậc THCS vì vậy mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư duy,sáng taọ.
 So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc khai thác kênh hình chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản trong quá trình dạy và học. Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo sư Phan Ngọc Liên và tiến sĩ Vũ Ngọc Anh để thấy rõ sự khác biệt đó:
KIỂU DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG
PPDH PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HS
1. Cung cấp nhiều sự kiện, được xem là tiêu chí cho chất lượng giáo dục.
2. GV là nguồn kiến thức duy nhất, phần lớn thời gian trên lớp dành cho GV thuyết trình, giảng giải, HS thụ động tiếp thu kiến thức thông qua nghe và ghi lại lời của GV.
3. Học sinh chỉ làm việc một mình trên lớp, ở nhà hoặc với GV khi kiểm tra.
4. Nguồn kiến thức thu nhận được của HS rất hạn hẹp, thường giới hạn ở các bài giảng của GV, SGK
5. Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu ở trên lớp
1. Cung cấp những kiến thức cơ bản được chọn lựa phù hợp với yêu cầu, trình độ của HS, nhằm vào mục tiêu đào tạo.
2. Ngoài bài giảng của GV ở trên lớp HS được tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác, vốn kiến thức đã học, kiến thức của bạn bè, SGK, tài liệu tham khảo, thực tế cuộc sống.
3. HS ngoài việc tự nghiên cứu còn trao đổi, thảo luận với các bạn trong tổ, lớp, trao đổi ngoài giờ. HS đề xuất ý kiến, thắc mắc, trao đổi với GV.
4. Nguồn kiến thức của HS thu nhận rất phong phú, đa dang: Lời nói, tài liệu viết, đồ dùng trực quan, di tích lịch sử, phòng truyền thống, nhân chứng lịch sử....
5. Dạy ở trên lớp, ở thực địa, ở bảo tàng, các hoạt động ngoại khoá....
(Trích “ Áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cựccủa HS trong môn lịch sử). GS. Phan Ngọc Liên và TS Vũ Ngọc Anh. NXB Đại học SP, Hà Nội 2002 
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn .Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được “Tích cực hoá’’ trong quá trình dạy- học, phải chủ động sáng tạo. Muốn đạt được điều đó GV cần áp dung nhiều phương pháp dạy - học trong đó có phương pháp khai thác kênh hình. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra. 
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ:
Trước sự đổi mới từng ngày, từng giờ của tri thức khoa học, cùng với sự bùng nổ nhanh về kiến thức qua các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là của internet thì việc truyền thụ kiến thức cho học sinh đòi hỏi phải chính xác, kịp thời và có hệ thống, có định hướng là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Chính vì vậy, để dạy tốt một tiết học giáo viên không ngừng phải nghiên cứu, tìm tòi nâng cao sự hiểu biết của mình, và phải có kĩ năng sử dụng các tư liệu đặc biệt là khai thác kênh hình cho tiết dạy. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên được thể hiện qua quá trình giáo dục và giảng dạy. Kiến thức giáo viên truyền thụ cho học sinh phải chính xác, đảm bảo yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục của cấp học. Phải tổ chức học tập một cách linh hoạt, chủ động sáng tạo để học sinh tự mình khám phá và chiếm lĩnh kiến thức.
Trong những năm gần đây các phương tiện, đồ dung cho dạy trên lớp của giáo viên tôi thấy đã có sự đầu tư và đổi mới. Song phương pháp, tổ chức một số giáo viên còn lúng túng, chưa xây dựng quy trình và kế hoạch một cách cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Chất lượng dạy và học có chuyển biến nhưng chưa mạnh. Từ yêu cầu thực tiễn đó, người giáo viên cần phải học tập, tìm hiểu tự bồi dưỡng cho mình phương pháp khai thác kênh hình để nâng cao hiệu quả trong dạy học lịch sử để đáp ứng yêu cầu hiện nay.
III. THỰC TRẠNG CỦA VẦN ĐỀ:
 Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong trường THCS hiện nay.
 Trong vài năm gần đây, bộ môn Lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 8- 9 nói riêng trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ môn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Lí , Hoá được tổ chức thi học kì cũng được thi tập trung theo lịch và đề của phòng giáo dục, việc ra đề cũng được chú trọng hơn, việc thi tuyển học sinh giỏi các cấp được tổ chức thường xuyên với quy mô và chất lượng, sát với thực tế. Cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học.
 Tuy nhiên qua hơn 20 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn lịch sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng kênh hình , tuy đã được phổ biến, học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được không đáng là bao. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn nói chung đối với học sinh lớp 8- 9 nói riêng khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.
 Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây: 
 Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng như Địa lí, Kĩ thuật, Thể dục, GDCD  đều là những môn phụ. Điều này được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng mức. Theo tìm hiểu của cá nhân tôi nhiều trường giáo viên dạy Văn, Địa lí ..có thể dạy sử do đó không đáp ứng yêu cầu của bộ môn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. 
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay về đồ dùng dạy học nhất là các trường vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan một di tích lịch sử vì không có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng . 
 Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong học tập bộ môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do chính những cơ chế, những quy định từ cấp trên. Trong những năm trở lại đây môn lịch sử được quan tâm nhiều hơn, đồ dùng, tài liệu học tập được cung cấp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học môn Lịch sử . 
 Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, đó là chỉ chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành, ít chú ý đến việc phát triển năng lực sáng tạo.
 Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc thực hiện các phương pháp dạy học phù hợp trong đó phải nói đến khai thác kênh hình để đem lại hiệu quả cho tiết dạy cũng như chất lượng bộ môn ngày một nâng cao. Mỗi một GV – HS phải hiểu rõ sự nguy hại của việc thi gì học nấy sẽ làm cho học vấn của học sinh bị què quặt, thiếu toàn diện..... Tình trạng mù lịch sử hiện nay ở không ít học sinh là hậu quả tất yếu của việc học lệch, không toàn diện. Đó là chưa kể đến việc coi thi, chấm thi chưa nghiêm túc, đúng mực nhằm đảm bảo thành tích của nhà trường, của cá nhân làm cho kết quả học tập của học sinh không đúng thực chất.
IV. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Tình hình của khai thác kênh hình trong giảng dạy lịch sử đối với việc dạy học trước đây:
- Theo quan niệm giáo dục lạc hậu trước đây cho rằng kênh hình là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh hoạ cho các kiến thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ.
- Theo phương pháp sử dụng này thì kênh hình chưa phát huy hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó, giờ dạy Lịch sử sẽ rơi vào những hạn chế sau:
+ Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức.
+ Các kiến thức Lịch sử do giáo viên cung cấp học sinh sẽ không hiểu sâu, nhớ kỹ bằng chính các em tự nhận thức.
+ Các nguồn trí thức từ dụng cụ trực quan chưa thực sự hấp dẫn đối với các em. Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng phát triển tư duy.
+ Chưa tạo cho học sinh các kỹ năng Lịch sử quan trọng như: Đọc, chỉ, bản đồ, phân tích các sự kiện, đánh giá, nhận xét các nhân vật lịch sử ... 
2. Những biện pháp mới đã thực hiện:
Để cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với chương trình giáo dục mới ở bộ môn Lịch sử , việc khai thác kênh hình được đặc biệt chú trọng trong ở các hình thức sau:
- Hình vẽ, tranh, ảnh chân dung.
- Bản đồ, lược đồ.
Đối với các loại phương tiện này tôi xin đưa ra một số s

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_khai_thac_kenh_hinh_trong.doc