Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở lớp 5

doc 20 trang Người đăng dothuong Lượt xem 581Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở lớp 5
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG 
CAO CHẤT LƯỢNG DẠY CHÍNH TẢ Ở LỚP 5
 Đề tài thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt
 Người thực hiện: NGUYỄN THÀNH ĐÔ
 Giáo viên môn : văn hóa
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Lê Lợi
 Tài liệu đính kèm : Đĩa CD	
Năm học : 2011 – 2012
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*************
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 1.SƠ YẾU LÝ LỊCH:
 2. TÊN ĐỀ TÀI: 
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG 
CAO CHẤT LƯỢNG DẠY CHÍNH TẢ Ở LỚP 5
MỤC LỤC
- - - o 0 o - - -
 PHẦN MỞ ĐẦU 
 1. Lí do chọn đề tài.. Trang 4
 2. Phạm vi đề tài . Trang 6
- Mục đích nghiên cứu 
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 PHẦN NỘI DUNG 
 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN....................................................... Trang 7
 2. NỘI DUNG. Trang 9
 2.1. Thực trạng trình độ chính tả của học sinh Tiểu học.
 	 2.2. Về chương trình sách giáo khoa (SGK): 
 3. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.......... Trang 11
 PHẦN KẾT LUẬN
 1. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC... Trang 17 
 2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN. .................Trang 19
	 Có sử dụng một số hình ảnh để minh họa
 PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài:
 Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh từng nói: “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ”. Bác luôn quan tâm đến nền giáo dục của nước nhà, đặc biệt là những mầm non tương lai của đất nước. Bác luôn kì vọng thế hệ thiếu nhi sẽ đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện nguyện vọng đó của Bác, Đảng và nhà nước ta hiện nay rất chú trọng đến sự nghiệp trồng người.
 Nhà trường chính là nơi kết tinh trình độ văn minh của một quốc gia, là nơi giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người có ích cho xã hội, giúp các em phát triển về mọi mặt. Trong chương trình Tiếng Việt, việc dạy đúng chính tả phải được coi trọng ngay từ buổi đầu đối với học sinh tiểu học. Phân môn chính tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn luyện cho học sinh nắm các quy tắc và thói quen viết đúng - chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm lĩnh văn hóa Việt - làm công cụ để giao tiếp, tư duy. Vì vậy, chính tả được dạy liên tục từ lớp Một đến lớp Năm với các loại bài như: nhìn - viết, nghe - viết, nhớ - viết, bài tập so sánh,  để các em được học môn chính tả một cách khoa học, cẩn thận và sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời kì học tập ở nhà trường cũng như suốt cuộc đời. 
Chúng ta đều biết rằng: “ Nhân cách của con người chỉ có thể được hình thành thông qua hoạt động giao tiếp”. Để xã hội tồn tại và phát triển, để giao tiếp được thuận tiện, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt là một ngôn ngữ thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngôn ngữ viết đóng vai trò quan trọng của Tiếng Việt nói riêng và trong tiếng nói của các quốc gia nói chung. Yêu cầu đầu tiên và quan trọng của ngôn ngữ viết là phải viết đúng chính tả. Có nghĩa là khi thể hiện ngôn ngữ viết cần phải tuân theo hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ. Hay nói cách khác, chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó là phương tiện thuận tiện cho việc giao tiếp bằng chữ viết bảo cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ mới không bị cản trở giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời trước và đời sau.
	Vì vậy việc dạy chính tả đúng phải được coi trọng ngay đối với học sinh các lớp của trường Tiểu học. Việc dạy chính tả được hiểu như rèn luyện việc thực hiện những chuẩn mực của ngôn ngữ viết. Ở các lớp Tiểu học, chính tả sẽ tạo điều kiện ban đầu trong hành trang ngôn ngữ cả một đời người cho các em.
	Qua được học chính tả, các em nắm bắt được các quy tắc chính tả và hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả. Từ đó có thói qnen viết đúng chính tả, giúp cho sự hoàn thiện nhân cách của học sinh. Nó bắt đầu từ việc thuận tiện trong tiếp thu trí thức qua các môn học ở Tiểu học đến việc xây dựng các văn bản trong quá trình giao tiếp trong học tập.
	Chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều phân môn. Phân môn chính tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn cho học sinh nắm các quy tắc và các thói quen viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác, chính tả giúp cho học sinh chiếm lĩnh văn hoá, là công cụ để giao tiếp, tư duy để học tập, trau dồi kiến thức và nhân cách làm người. Ngay từ đầu ở bậc Tiểu học trẻ cần phải được học môn chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có thể sử dụng công cụ này suốt những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cả cuộc đời.
	Chính tả có tầm quan trọng như vậy nên môn học này cần phải được coi trọng ở các trường Tiểu học. Nhưng trên thực tế ở một số vùng nông thôn hiện tượng học sinh viết sai chính tả là khá phổ biến. Cụ thể trên địa bàn xã nơi tôi đang giảng dạy, hiện tượng học sinh viết sai chính tả nhất là những âm dễ lẫn lộn như: l – n; s – x; tr – ch và dấu ngã. Vấn đề này có thể do học sinh phát âm sai dẫn đến hiểu sai và viết sai chính tả. Bên cạnh đó hệ thống sách giáo khoa, bài tập chính tả chưa xây dựng theo vùng, miền. Nên việc dạy và học chính tả còn gặp nhiều khó khăn.
	Trước tình hình như vậy, việc nhìn nhận lại thực trạng về việc dạy chính tả để từ đó tìm ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng học chính tả cho học sinh vùng phương ngữ là hết sức cần thiết. Đặc biệt là việc cải tiến cách dạy chính tả sao cho khoa học, cho hiệu quả hơn. Coi trọng phương pháp dạy chính tả có ý thức để việc viết đúng chính tả trở thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh ngay từ lớp đầu cấp.
	Xuất phát từ những quan điểm trên, bản thân lại là một giáo viên dạy học ở vùng có nhiều đối tượng học sinh có vấn đề về chính tả , tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở lớp 5” để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học phân môn Chính tả.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: 
 * Phạm vi nghiên cứu: 
 - Chương trình và nội dung của phân môn chính tả lớp 5. 
 - Sách giáo viên môn Tiếng Việt lớp 5.
 - Chuyên đề về Giáo dục tiểu học.
 - Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học môn chính tả ở tiểu học”
 * Thời gian nghiên cứu:
 -Từ tháng 9 năm 2011 đến hết tháng 4 năm 2012.
 Khối 5 Trường Tiểu học Lê Lợi 
 * Đối tượng nghiên cứu: 
 - Thực trạng viết sai chính tả của học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Lê Lợi - Biện pháp khắc phục lỗi chính tả. 
 - Khách thể nghiên cứu là: Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Lê Lợi 3. Mục đích của đề tài:
 Trong quá trình giảng dạy thì thực trạng trong từng lớp, từng đối tượng học sinh cũng khác nhau, nên tôi nhận thấy vấn đề đặt ra cần giải quyết là giáo viên phải tìm ra phương pháp dạy đúng, dạy hay, hiệu quả nhất để giúp học sinh khắc phục viết sai lỗi chính tả theo đúng quy ước của ngành Giáo dục và của xã hội. 
 PHẦN NỘI DUNG 
1. Cơ sở lý luận:
 1.1. Cơ sở về ngữ âm học.
 * Mối quan hệ giữa âm chữ và nghĩa.
- Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ yếu của Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Để phát huy một cách có ý thức. đặc biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết.
 * Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ.
Ở Tiếng Việt, nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc ngữ âm học, ngoài ra chính tả Tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc như: Nguyên tắc truyền thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt....Những nguyên tắc này không đồng nhất với ngữ âm học, do vậy chính tả Tiếng Việt vẫn còn những bất hợp lý. Chính tả chữ viết (quốc ngữ) vừa đơn giản lại vừa phức tạp. Đơn giản vì chữ quốc ngữ là chữ viết ghi âm ở dạng ổn định văn bản hợp lý, phát âm thế nào thì viết thế ấy. Nhưng phức tạp ở chỗ: trong Tiếng Việt có hiện tượng trong Tiếng Việt hiện đại, bên cạnh việc phát âm không phù hợp với tiêu cách phát âm ở những vùng miền khác nhau (phương ngữ), trong khi đó hệ thống ghi âm tiêu chuẩn của Tiếng Việt lại chưa được xác định một cách chính thức. Do đó khó có thể phổ biến rộng rãi hệ thống ấy được. Hơn nữa chuẩn lại có trường hợp trong đó một từ đồng thời mang hai biến thể phát âm, khi viết các em cần chú ý lắng nghe cách phát âm của người đọc để viết cho đúng với từng văn bản .
	Ví dụ: 	rập rờn – dập dờn
	 	Suýt soát –xuýt xoát
	 	trời – giời
	Hoặc có khi cùng một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết.
 d: dải lụa 
 gi: giải thích 
	Ví dụ: 	/z/ 
 i: lí luận
 y: Lý Thường Kiệt
	 /i/	
Bản thân hệ thống âm vị Tiếng Việt còn một số vị âm không ghi thống nhất, một âm có thể ghi bằng nhiều con chữ. 
 c (con cuốc)
 k (cái kim)
 q (Tổ quốc)
 /k/	
	Hoặc trong bộ chữ cái Tiếng Việt còn chữ “h” là một hiện tượng đặc biệt. Nó vừa sử dụng độc lập làm đại diện cho phụ âm /h/ thể hiện bằng con chữ “h”, vừa được sử dụng theo cách ghép với các con chữ khác làm đại diện cho 7 âm nữa đó là: ch, gh. kh, nh, ngh, ph, th. Dù “h” đứng một mình hay “h” đứng sau các chữ khác (c, g, k, n, ng, p, t) thì ch, gh, kh, nh, ngh, ph, th đều có giá trị như nhau. Mỗi hình thức trong 7 hình thức đó đều chỉ thay thế cho 1 âm. Cách nhận biết tốt nhất về “ng” và “ngh” là dựa vào khả năng kết hợp chung với nguyên âm.
	Trước những bất hợp lý trên, việc xác định những trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng những biến thể phát âm địa phương, đồng thời phải nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh cụ thể để ghi nhớ cho học sinh cách phân biệt chính tả.
	Do vậy hai nhiệm vụ chủ yếu của việc đề cao nguyên tắc dạy học chính tả có ý thức là: giải quyết những vấn đề tồn tại của chữ quốc ngữ. Tôn trọng nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực, phải chú ý cách phát âm của địa phương.
 1.2. Cơ sở thực tế.
	Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học nhận thức hiện thực khách quan mang đậm màu sắc cảm tính. Các giác quan như tai, mắt được sử dụng nhiều trong nhận thức sự vật, cho nên trực quan cụ thể là những yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên nhận thức và tư duy của học sinh Tiểu học. “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” câu nói nổi tiếng của Lê- nin khi người giải thích quy luật nhận thức hiện đại, đặc biệt được thể hiện ở học sinh Tiểu học. Khi dạy chính tả cho học sinh Tiểu học cần vận dụng triệt để đặc điểm, nhận thức của trẻ em ở lứa tuổi này.
	VD: Nghe và quan sát cách phát âm đúng để phát âm đúng. Quan sát cách viết đúng để viết đúng , dần dần học sinh sẽ tích luỹ được những kinh nghiệm, làm giàu thêm tri thức chính tả cho bản thân. Kết quả là các em nhận thức được những vốn kinh nghiệm một cách có ý thức, tạo nên kĩ năng kĩ xảo cho các em. Từ đó giúp các em dễ dàng trong việc tiếp thu các tri thức của các môn học, nhất là trong phân môn Tập làm văn
2. NỘI DUNG:
 2.1.Thực trạng trình độ chính tả của học sinh Tiểu học.
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát sách vở chính tả, vở tập làm văn của học sinh trường Tiểu học Hợp Thanh B, bản thân tôi nhận thấy: Vở chính tả, tập làm văn của các em và các vở khác mắc khá nhiều lỗi chính tả. Thống kê số lỗi chính tả của các em tôi thấy có 3 lỗi cơ bản sau.
	- Lỗi chính tả do không nắm vững chính tả: lỗi này thường gặp khi viết các phụ âm đầu: d/gi; ch/tr; ng/ngh
	- Lỗi do không nắm vững cấu trúc âm tiết của Tiếng Việt và không hiểu cấu trúc nội bộ của âm tiết Tiếng Việt nên học sinh viết sai.
	VD: quanh co; khúc khuỷu; ngoằn nghèo.
	- Lỗi chính tả do viết theo lối phát âm địa phương hoặc do không nắm vững âm chính. Đây là lỗi cơ bản nhất mà qua khảo sát tôi nhận thấy ở trường Tiểu học Hợp Thanh B nói riêng và ở xã Hợp Thanh nói chung.
 Cụ thể là âm: l – n, dấu ngã và dấu hỏi. Học sinh thường nhầm lẫn và viết sai chính tả trong các bài viết của mình.
	Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng sai trên tôi thấy chủ yếu là do học sinh phát âm sai. Thường các em còn phát âm lẫn lộn giữa âm l – n nên không phân biệt được khi viết. Để sửa lỗi này giáo viên trường Tiểu học Hợp Thanh B đã cố gắng dạy cho học sinh nắm vững âm chính trong Tiếng Việt. Muốn viết đúng chính tả thì phải phát âm đúng vì chính âm đi trước chính tả. Do vậy ta phải chú trọng việc phát âm chuẩn cho học sinh trong các giờ tập đọc. Mặt khác mỗi giáo viên phải là một chuẩn mực sống động để học sinh bắt trước và noi theo. Ngoài ra việc đổi mới các phương pháp dạy học và áp dụng qui trình soạn giáo án theo hướng đổi mới, giúp học sinh nắm bắt các mẹo luật chính tả cũng hết sức cần thiết để giúp học sinh viết đúng chính tả. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tôi xin được thống kê số liệu học sinh mắc lỗi chính tả ở khối 5 thu được đầu năm như sau.
Lớp
Tổng số
học sinh
Các lỗi chính tả thường mắc
l - n; ~/./
d/gi/r; tr/ch; s/x; g/gh
Cấu trúc âm tiết
5A
30
10 em
6 em
1 em
5B
31
14 em
8 em
3 em
5C
30
11 em
7 em
5 em
5D
30
12 em
6 em
3em
	Thực tế về chất lượng dạy chính tả của giáo viên Tiểu học trước hết phải nói đến trình độ đã được đào tạo của giáo viên không đồng đều và việc tổ chức dạy và học môn chính tả Tiếng Việt chưa được khoa học. Hai là trong các nhà trường sư phạm việc dạy phương pháp môn Tiếng Việt nói chung, phương pháp dạy chính tả nói riêng còn coi nhẹ.
	Do đó nhiều giáo viên ra trường còn gặp nhiều lúng túng về nội dung và phương pháp và cách rèn kỹ năng cho học sinh. Những tồn tại trên dẫn đến chất lượng học chính tả của học sinh còn nhiều hạn chế. Đặc biệt với những vùng phương ngữ thì đây là một thiệt thòi rất lớn vì các em không có điều kiện để đạt tới một chuẩn mực chính tả như mong muốn. Để khắc phục tình trạng này thì trước hết cần phải chuẩn hoá giáo viên để giáo viên có đủ kinh nghiệm, trình độ giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả, bỏ được thói quen phát âm sai, viết sai.
 2.2. Về chương trình sách giáo khoa (SGK):
	Trước hết phải khẳng định rằng môn Tiếng Việt ở Tiểu học SGK đã xác định được những trọng điểm chính tả cơ bản cần dạy cho học sinh. Các bài tập trong SGK cũng khá đa dạng, phù hợp với từng khối lớp và cấu trúc đi từ dễ đến khó.
	Tuy nhiên về hạn chế SGK còn đánh đồng nội dung dạy học trong cả nước cho nên có thể nói nội dung dạy chính tả trong SGK Tiếng Việt vừa thừa lại vừa thiếu do chưa sử lý được việc dạy chính tả theo khu vực. Thừa ở các em vừa phải luyện tập ở cả những nội dung mà các em đã biết, không mấy khi sai sót. Thiếu ở chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn, luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi mà các em thường mắc phải. Nội dung chính tả được trình bày trong SGK Tiểu học còn mang tính ngẫu nhiên, chủ quan, áp đặt, không được xây dựng dựa trên sự điều tra khảo sát tình hình chính tả ở từng vùng, từng khu vực. Chính tả trong SGK chưa thống nhất, điều này cũng gây không ít khó khăn cho việc dạy học chính tả ở Tiểu học, đặc biệt ở những vùng phương ngữ.
 3. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
	Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn tôi nhận thấy rằng trọng điểm chính tả mà học sinh trường Lê Lợi mắc phải chính là do lỗi phát âm địa phương không phân biệt được giữa l với n, dấu thanh ~/./ Trước thực tế như vậy, bản thân người giáo viên phải hết sức cố gắng nỗ lực nhiều mặt như: tâm lý học lý luận dạy học, các kiến thức về ngữ âm, về văn học.... làm sao phải để học sinh nhận biết được cần kết hợp nghe và viết và biết vận dụng mẹo vặt vào thực tiễn . Có như vậy chất lượng giáo dục chính tả vùng phương ngữ mới thu được kết quả như mong muốn.
	Muốn làm được điều đó, trước hết người giáo viên phải đặt phân môn chính tả nằm trong mối quan hệ giữa các phân môn khác của Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn tập đọc và từ ngữ. Học sinh muốn viết đúng được thì phải hiểu được nghĩa và phát âm đúng từ đó. Nếu học sinh phát âm sai, tuỳ tiện sẽ dẫn đến hiểu sai và viết sai hoặc do thói quen lâu ngày không được sửa chữa. Trong các giờ tập đọc, chúng ta dành nhiều thời gian hơn cho việc sửa lỗi phát âm cho học sinh, đặc biệt là hai âm l và n, dấu ~ /./. Giáo viên phát âm mẫu cho học sinh học tập và hướng dẫn cách phát âm tỉ mỉ. Đặc biệt giáo viên không bao giờ được phạm sai lầm về lỗi phát âm này. Nếu không việc sửa lỗi của giáo viên sẽ mất tác dụng.
	Ngoài ra giáo viên hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả trên cơ sở hiểu đúng nghĩa của từ. Muốn viết đúng một từ, học sinh phải biết đặt từ đó trong mối quan hệ với cụm từ và các văn bản. Nếu ta tách từ đó ra khỏi văn bản có thể học sinh sẽ không hiểu được nghĩa và do đó dẫn đến việc viết sai chính tả.
	VD: Khi đọc tiếng “cuốc” nếu không đặt nó trong mối quan hệ, cụm từ, câu thì rất khó xác định nghĩa để viết đúng. Nhưng nếu đặt nó trong câu: “Mẹ em vác cuốc ra đồng” hoặc trong từ “Tổ quốc” thì học sinh dễ dàng viết đúng.
	Bên cạnh đó muốn học sinh viết đúng giáo viên phải cho học sinh nắm được khả năng kết hợp của các kí hiệu từ trong các trường hợp sau:
	+ Các con chữ phụ âm kết hợp với các con chữ nguyên âm để tạo nên phụ âm đơn như “gi”, “qu”. Con chữ phụ âm đi trước, con chữ nguyên âm đi sau. Trong thực tế chính tả, khi xuất hiện “q” thì nhất thiết sẽ có “u” đi kề liền. Đây là luật yêu cầu học sinh cần nắm vững.
	+ Các con chữ phụ âm kết hợp với nhau để tạo nên phụ âm đơn.
	VD “ngh”, “ng”, “gh”, “tr”. Trong Tiếng Việt dùng 9 kí hiệu từ đơn: ph, th, ch, kh, nh, ng, gh, ngh, tr. Với hình thức chuỗi như vậy không bao giờ được phép kết chuỗi đảo ngược các thứ tự sắp xếp như rt, hn...
	+ Các con chữ nguyên âm kết hợp với nhau để tạo nên một kí tự nguyên âm đôi.. 
VD: iê, ia, ươ, uô, ua, uâ...
	Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần cung cấp kiến thức này cho các em. Tổng kết lại “v” chỉ kết hợp các âm không tròn môi, không nên kết hợp với các nguyên âm tròn môi.
	Một điều rất quan trọng trong dạy chính tả cho học sinh vùng phương ngữ là dạy cho các em biết được một số mẹo luật chính tả. “Mẹo” được hiểu như cách làm độc đáo giúp học sinh phân biệt, ghi nhớ được cách viết đúng những chữ cái hay nhầm lẫn trong khi viết chính tả. Sự tìm ra các mẹo chính tả dựa vào:
	+ Sự kết hợp: Trong cấu trúc âm tiết.
	+ Sự láy âm, điệp âm.
	+ Mẹo từ hán việt.
	+ Mẹo nghĩa của từ.
	+ Mẹo phân biệt l/n:.
	- Mẹo 1: Một chữ ta không biết là l hay n, nhưng nó đứng đầu một từ láy âm, không phải là điệp âm thì dứt khoát là “l” chứ không phải “n”.
	VD: “l” láy với “c”: lò cò, la cà, lục cục...
	 “l” láy với “b”: lệt bệt, lùng bùng, lõm bõm..
	 “l” láy với “d”: líu díu, lò dò...
	 “l” láy với “h”: lúi húi, loay hoay...
	 “l” láy với “n”: lơ mơ, liên miên...
	- Mẹo 2: Khả năng kết hợp âm:
 Âm “l” đứng trước âm đệm nhưng “n” không đứng trước âm đệm. Do đó “n” không bao giờ đứng trước một vần bắt đầu: oa, uê, uy... trái lại “l” lại đứng trước các vần đó như: loa, luân..
	- Mẹo 3: mẹo luật láy âm, điệp âm:
	“l” láy âm rất rộng rãi, trái lại “n” không láy âm với một âm nào mà chỉ điệp âm với chính nó. Đồng thời lại không có hiện tượng “l” láy âm với “n”. Từ đó suy ra quy tắc: Nếu gặp một từ láy mà hai âm đầu đọc giống nhau thì nhất định là một điệp âm đầu và cả hai chữ phải cùng có âm đầu là “l” hoặc “n”. Vì vậy ta chỉ cần biết một chữ là đủ.
	VD: lấp loáng, long lanh, lanh lảnh....
	 no nê, ninh ních, nõn nà...
	- Mẹo 4: Đối với trường hợp “l” và “n” đứng ở chữ thứ 2. Trong từ láy thì”n” khi láy âm chỉ láy với “gi” và không láy với âm nào khác. Trái lại “l” lại không láy với “gi” mà láy với các âm khác .
	(Ngoại lệ có: khúm núm, khệ nệ)
	kh – l : khéo léo, khoác loác...
	ch – l : cheo leo...
	“n” láy với những âm tiết không có âm đầu như: ảo não, áy náy...
	- Mẹo 5: Những chữ không biết được “l” hay “n” nhưng đồng nghĩa với một từ khác viết với “nh” thì chữ ấy là “l”.
	VD: lăm le (nhăm nhe)
	 lỡ làng (nhỡ nhàng)
	Trên đây là một số mẹo luật nhận diện chữ cái phân biệt l - n trong khi viết chính tả mà mỗi giáo viên thuộc phương diện phương ngữ Bắc bộ nói chung và giáo viên trường Lê Lợi nói riêng cần nắm được để hướng dẫn các em viết chính tả.
	Ngoài ra còn một số mẹo phân biệt “ch” với “tr”, “s” với “

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_chinh_ta_lop_5.doc