Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn Vật lí - Năm học 2015-2016 - Nguyễn Thị Thanh Tâm

doc 19 trang Người đăng duyenlinhkn2 Ngày đăng 24/11/2025 Lượt xem 10Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn Vật lí - Năm học 2015-2016 - Nguyễn Thị Thanh Tâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn Vật lí - Năm học 2015-2016 - Nguyễn Thị Thanh Tâm
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH OAI
 TRƯỜNG THCS PHƯƠNG TRUNG
 . 
Đề tài : Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn vật lí”
Người thực hiện:Nguyễn Thị Thanh Tâm
Năm học :2015-2016
Phòng GD ĐT Thanh Oai	 Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trường THCS Phương Trung	Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học 2015-2016
 SƠ YẾU LÍ LỊCH 
 Họ và tên 	: Nguyễn Thị Thanh Tâm
 Ngày, tháng , năm sinh: 9-12-1982
 Năm vào ngành : 1-11-2012
 Chức vụ : Giáo viên
 Đơn vị công tác : Trường THCS Phương Trung 
 Trình độ chuyên môn : Đại học lý
 Hệ đào tạo : Từ xa
 Bộ môn giảng dạy: Vật lý 8 và vật lý 9
 Trình độ Ngoại ngữ : 
 Danh hiệu thi đua đã đạt :
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài : 
1.1.Cơ sở lí luận 
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 của ban chấp hành trung ương khóa VIII về những giải pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Cùng với sự đổi mới phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam có những biến đổi sâu sắc về mục tiêu, nội dung sách giáo khoa và cả phương pháp giáo dục, một trong những đổi mới cơ bản hiện nay là đổi mới mục tiêu dạy học ở trường phổ thông THCS. Ngành giáo dục đã tiến hành cải cách sách giáo khoa ở các bậc học. Sách giáo khoa mới được biên soạn trên hình thức đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở lấy học sinh làm trung tâm. Nhìn chung, giáo viên và học sinh đã quen dần với nội dung và phương pháp mới của sách giáo khoa mới. Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí theo chương trình đổi mới sách giáo khoa thì học sinh phải chủ động tiếp thu kiến thức, đào sâu kiến thức bài học thông qua sự hướng dẫn của giáo viên, chủ yếu là thực nghiệm hơn thuyết giảng, nhằm giúp các em tự giác học tập, độc lập suy nghĩ và tích cực học tập trên lớp và ở nhà để giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu những kiến thức đã được thầy cô giảng dạy.
 Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật quan trọng. Sự phát triển của khoa học vật lí gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Vì thế, những hiểu biết và nhận thức về vật lí có giá trị to lớn trong đời sống và sản xuất, đặt biệt trong công cuộc xây dựng đất nước.
 Bên cạnh đó, môn vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường trung học cơ sở. Chương trình vật lí trung học cơ sở có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vật lí cơ bản, ở trình độ này bước đầu hình thành ở học sinh những kĩ năng cơ bản phổ thông vá thói quen làm việc khoa học, góp phần tạo ra ở các em năng lực nhận thức và các phẩm chất nhân cách mà mục tiêu giáo dục đề ra.
 Đổi mới phương pháp dạy nhất là tăng cường hướng dẫn học sinh thực hành thí nghiệm, giáo viên phải làm sao phát huy tính tích cực chủ động lĩnh hội tri thức của học sinh. Giáo viên với vai trò là người chỉ đạo giúp học sinh giải quyết vấn đề mới nẩy sinh hoặc mâu thuẫn nhận thức.
1.2. Cơ sở thực tế:
Sau một thời gian giảng dạy Vật lý ở trường THCS Phương Trung ,THCS Liên Trung (Đan Phượng )và đến thăm quan một số trường khác trong huyện nữa,tôi nhận thấy một số điều sau:
Vật lý cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: “ĐỨC-TRÍ-THỂ-MĨ”. Ở những mức độ khác nhau . Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, nhưng hiện nay, việc dạy học Vật lý chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn Vật lý, sợ học môn Vật lý . Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học Vật lý phải ghi nhớ quá nhiều kiến thức khô khan, không chịu vận dụng vào thực tế.
	Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân môn Vật lý mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Vật lý chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ môn khoa học, cần phải nghiên cứu nghiêm túc, có sự so sánh vận dụng linh hoạt ,gắn kết liên môn với các môn học khác và vận dụng càng nhiều với thực tế thì càng dễ dàng tiếp thu,ghi nhớ sâu được kiến thức . Giáo viên chưa tích cực thay đổi phương pháp dạy học trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập tẻ nhạt,giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
 Từ thực trạng của vấn đề trên, tôi chọn giải pháp "Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn vật lí" để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để giải quyết một vấn đề cụ thể. Nhằm giúp giáo viên Vật lý có thể áp dụng vào giảng dạy môn Vật lý một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn Vật lý trong chương trình cấp THCS.
2. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm 
 Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến cách học vật lý và thực hành vật lý trong nhà trường làm nảy sinh tâm lí không thích học vật lý và lúng túng trong các tiết học có thí nghiệm . Để góp phần khắc phục hạn chế đó trong phạm vi đề tài này, tôi không có tham vọng lớn chỉ mong rằng qua các tiết có sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn vật lí.Và qua nhiều tiết học có sự kết hợp như vậy học sinh thêm yêu thích học Vật lý, kết quả học tập của học sinh được nâng cao hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu 
 Để nghiên cứu được đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
 +Phương pháp đọc tài liệu
 +Phương pháp dự giờ, rút kinh nghiệm
 +Phương pháp điều tra thực tiễn
 +Phương pháp kiểm tra , đối chiếu, so sánh
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
 +Học sinh lớp 8A1 trường THCS Phương Trung 
 +Phạm vi nghiên cứu : Trong suốt năm học 2015-2016
5. Kế hoạch nghiên cứu 
Tháng 9-10 : khảo sát thực tế 
Tháng 11-12: Nghiên cứu tìm giải pháp khắc phục những tồn tại về kĩ năng làm thí nghiệm vật lý
Các tháng còn lại áp dụng những giải pháp đã tìm để nâng cao kĩ năng làm thí nghiệm vật lý kết hợp sử dụng nhiều dụng cụ thí nghiệm sẵn có ,sưu tầm,tự làm.
6.Tài liệu tham khảo: 
1. Sách giáo khoa vật lí 8– NXB giáo dục.
2. Sách giáo viên vật lí 8– NXB giáo dục, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn vật lí THCS – NXB giáo dục.
3.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III – NXB giáo dục 
4.Tài liệu tập huấn giáo viên môn vật lí về dạy học: Áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn vật lí
 PHẦN II. NỘI DUNG
I-CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1- Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. 
+BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra...
+Với một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. 
 Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của GV.
2. Phân tích thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1. Về phía học sinh:
 Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.
 Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. 
 Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.
 Môn vật lý là môn học trực quan, kiến thức hình thành cho học sinh thông qua các hiện tượng, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó các thí nghiệm (TN) và các phương tiện nghe nhìn (PTNN) có vai trò rất quan trọng trong dạy học Vật lí.
 TN là nguồn cung cấp thông tin chính xác, tin cậy, dễ hiểu, TN là phương tiện tốt nhất để kiểm tra tính đúng đắn của kiến thức Vật lí, TN có tác động mạnh đến các giác quan của học sinh trong dạy học, TN là phương tiện rèn luyện sự khéo léo cho học sinh, TN góp phần đánh giá năng lực nhận thức và làm phát triển khả năng tư duy và TN giúp củng cố vận dụng kiến thức vững chắc.
2.2. Về phía giáo viên:
Giáo viên luôn có tinh thần sáng tạo, tìm tòi giải pháp cho học sinh thí nghiệm thực hành để các em làm quen dần với khoa học, qua đó nhằm rèn thêm kĩ năng và thao tác trên dụng cụ.
Bên cạnh đó, khả năng của giáo viên còn hạn chế trong việc tự làm thiết bị dạy học, hạn chế về thời gian, kinh phí
Phương tiện nghe nhìn cũng có vai trò quan trọng, nên giáo viên cần quan tâm sử dụng chúng trong dạy học vật lí. Mỗi loại PTNN có chức năng khác nhau, người GV cần khai thác các tiềm năng vốn có trong việc chuyển tải tri thức của các loại PTNN khác nhau. Có như thế, PTNN mới hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động của thầy và trò trên giờ lên lớp. 
2.3 .Về cơ sở vật chất:
Ngay từ đầu năm, nhà trường đã kiểm tra, giám sát việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học. Trường có trang bị thiết bị thực hành nhưng chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, không có phòng học thí nghiệm nên cũng khó khăn cho giờ dạy Vật lý
Hầu như chưa có định hình, kinh nghiệm về dạy học có áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào giảng dạy bộ môn vật lí.
2.4.Những ưu điểm và bất cập khi thực hiện vấn đề nghiên cứu 
* Những ưu điểm : 	
Việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã và đang được áp dụng trong nhà trường giúp học sinh phát huy được vai trò chủ động của mình trong việc lĩnh hội kiến thức, kích thích khả năng sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Cùng với việc đổi mới về phương pháp, một số phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại cũng đã được áp dụng vào quá trình giảng dạy của giáo viên trên lớp giúp giờ học sinh động và mang lại hiệu quả cho giờ học.Các em học sinh đang trong lứa tuổi thích khám phá ,thích tham gia vào các hoạt động sáng tạo như tự tạo đồ dùng thí nghiệm đơn giản hoặc tìm kiếm ở xung quanh cuộc sống hằng ngày.
 Hàng năm, Sở giáo dục và Đào tạo Hà Nội , phòng giáo dục huyện Thanh Oai đều có tổ chức các chuyên đề tập huấn cho giáo viên môn Vật lý với mục đích nâng cao chất lượng học tập ở bộ môn này.
* Những bất cập 
 Chúng ta đã và đang đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Song, một thực tế đáng buồn là còn nhiều thầy cô giáo chưa thật quan tâm đến cải tiến phương pháp giảng dạy cho phù hợp đối tượng và đặc trưng bộ môn, nhất là đối với môn Vật lý,không thể thiếu những thí nghiệm Giờ học vật lý phần lớn là dạy chay, không sử dụng đồ dùng thí nghiệm nên rất tẻ nhạt,khô khăn cứng nhắc,học sinh không tích cực học tập,mà học lấy lệ ,học chống đối ,các em viết cho đủ bài nếu giáo viên nhắc nhở.Bản thân các em học sinh rất thích được tham gia vào các hoạt động chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm trước các tiết học ,nhất là những đồ dùng đơn giản mà các em có thể mang từ nhà hoặc tự làm nên nếu như giáo viên dặn dò tỉ mỉ và hướng dẫn các em cuối các tiết học chuẩn bị cho tiết học sau thì các em rất tích cực tham gia.
Khi được phân công dạy môn Vật lý tại lớp 8A1, ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực tế, kết quả như sau: 
Số học sinh thích học môn vật lý là: 10 em 
Số học sinh thấy bình thường là : 18 em 
Số học sinh sợ học vật lý là : 17 em
3. Các giải pháp : 
 Ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột hiệu quả trong giảng dạy môn vật lý
* Đặc trưng cơ bản của Phương pháp BTNB:
- Bản chất: Việc phát hiện, tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua việc GV giúp HS tự đi lại chính con đường mà các nhà khoa học đã nghiên cứu tìm ra chân lý (kiến thức): Từ tình huống xuất phát, nêu vấn đề, quan niệm về vấn đề đó như thế nào, đặt câu hỏi khoa học (giả thuyết khoa học), đề xuất phương pháp nghiên cứu, thực hiện phương pháp nghiên cứu để kiểm chứng giả thuyết, đưa ra kết luận.
- Đặc trưng: 
+ Dạy học phải tự nhiên như qúa trình tìm ra chân lý.
+ Với PPBTNB, kể cả HS đọc sách trước; học thêm trước hoặc biết trước KT thì chưa chắc HS hiểu tường tận và đề xuất thí nghiệm CM cho phát biểu đúng. HS sẽ lúng túng khi hỏi lại: vì sao em biết điều đó? Làm thế nào để em có thể chứng minh kết luận của em đúng?. Nếu dạy trước thì tiết học không hấp dẫn;
+ PPBTNB chú trọng đến quan niệm ban đầu của học sinh về kiến thức mới sẽ học.
+ Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai. Thông qua thí nghiệm, chính HS sẽ tự đánh giá đúng hay sai.
+ PPBTNB áp dụng chủ yếu cho dạy khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa học TN, các chủ đề gắn với đời sống thực tiên của HS;
+ Trong CT hiện nay có bài áp dụng cả, có bài áp dụng một phần,
 * Ứng dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy bài . “LỰC ĐẨY ÁC - SI - MÉT "
 Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
 Khi thả các vật vào nước ta thường thấy có vật thì chìm vào trong nước nhưng có vật thì nổi trên mặt nước.Hãy lấy một số ví dụ trong thực tế về các vật nổi/chìm trong nước
Với điều kiện nào thì một vật chìm trong nước? Với điều kiện nào thì một vật nổi trên mặt nước?
 Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
-Cá nhân tự ghi những quan niệm của mình về điều kiện vật nổi/chìm trong nước.
Có thể có một số nhóm quan niệm ban đầu như sau:
- Vật nặng thì chìm, vật nhẹ thì nổi;
- Vật ngấm nước thì chìm, vật không ngấm nước thì nổi;
- Vật đặc thì chìm, vật rỗng thì nổi;
- Vật có đáy hẹp thì chìm, vật có đáy rộng thì nổi; sau đó thảo luận nhóm viết vào tờ giấy A4
 Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
-Chỉ đại diện vài nhóm phát biểu suy nghĩ vì sao mình lại có ý kiến như vậy (Làm cho quan niệm ban đầu lộ rõ hơn)
-Y/C thảo luận đề xuất phương án thí nghiệm kiểm tra theo các nhóm đã gom.
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi ,nghiên cứu
-Y/C tiến hành TN theo nhóm với các TN cần làm cụ thể như sau:
.TN1:
- Thả quả bóng bàn vào nước trong bình chia độ, quan sát và đánh dấu phần bị ngập vào nước.
- Dùng xilanh bơm một ít nước vào một trong các quả bóng bàn rồi thả vào nước, quan sát và đánh dấu phần ngập trong nước.
- Bơm dần nước vào trong quả bóng bàn và lặp lại thí nghiệm, quan sát, ghi lại kết quả và nhận xét.
.TN2:
- Treo quả nặng hình trụ có vạch chia vào lực kế (treo trên giá thí nghiệm) để đo trọng lực của nó ngoài không khí, ghi lại kết quả đo.
- Giữ nguyên vật trên lực kế, thả cho vật ngập dần vào trong nước, đọc số chỉ của lực kế tương ứng, ghi lại kết quả và suy ra lực đẩy của nước tác dụng lên quả nặng
 Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức
-Y/C các các nhân nêu kết luận sau khi tiến hành TN.
-Chuẩn hóa kiến thức và cho học sinh ghi vở.
* Lực đẩy Ác - si - mét:
- Một vật nhúng trong chất lỏng bị chất lỏng tác dụng một lực đẩy hướng từ dưới lên gọi là lực đẩy Ác - si - mét.
- Độ lớn của lực đẩy Ác - si - mét tỷ lệ thuận với thể tích của phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ.
- Ngoài ra, có thể chứng minh được lực đẩy Ác - si - mét phụ thuộc vào bản chất của chất lỏng, cụ thể là trọng lượng riêng của chất lỏng.
- Công thức tính lực đẩy Ác - si - mét là: FA = d.V
(d.V chính là trọng lượng của chất lỏng bị vật chiếm chỗ. Sử dụng bộ thí nghiệm đã cho, em hãy đề xuất phương án thí nghiệm nhằm kiểm nghiệm lại công thức nói trên).
4. Minh hoạ bằng giáo án 
	Chủ đề . LỰC ĐẨY ÁC - SI - MÉT VÀ SỰ NỔI (3 tiết)
I. Mục tiêu của bài học:
Sau bài học, học sinh:
- Phát biểu và viết được biểu thức lực đẩy Ác - si - mét trong chất lỏng;
- Xác định được độ lớn của lực đẩy Ác - si - mét khi một vật nổi trên mặt thoáng của chất lỏng.
- Nêu được điều kiện một vật chìm, nổi, lơ lửng trong chất lỏng.
II. Thiết bị dạy học:
- Bộ thí nghiệm về lực đẩy Ác - si - mét;
- Bóng bàn: 3 quả;
- Bình thủy tinh 500ml;
- Xilanh và kim tiêm.
III. Tiến trình dạy học cụ thể:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Pha 1: Tình huống xuất phát.
GV gợi lại cho HS thấy rằng khi thả các vật vào nước ta thường thấy có vật thì chìm vào trong nước nhưng có vật thì nổi trên mặt nước.
Yêu cầu HS lấy một số ví dụ trong thực tế về các vật nổi/chìm trong nước và nêu câu hỏi:
Với điều kiện nào thì một vật chìm trong nước? Với điều kiện nào thì một vật nổi trên mặt nước?
HS nêu được một số ví dụ trong thực tế như:
- Hòn đá/sỏi/gạch... chìm trong nước;
- Tàu, thuyền, xuồng... nổi trên mặt nước;
- Cái lá, miếng bấc... nổi trên mặt nước;
...
Pha 2: Hình thành câu hỏi của học sinh
Trong khi HS viết ra các ý kiến của mình về điều kiện chìm/nổi của một vật, GV đi xuống và quan sát vở thực hành của một số HS để nắm bắt nhanh các khái niệm ban đầu của HS về sự chìm, nổi của các vật.
Trong quá trình quan sát, cố gắng nắm bắt nhanh những quan niệm khác biệt của HS, chọn những HS có quan niệm "sai" nhiều nhất để yêu cầu lên trình bày trước, những HS có quan niệm "đúng" nhất cho trình bày sau.
HS làm việc cá nhân, ghi những quan niệm của mình về điều kiện vật nổi/chìm trong nước.
Có thể có một số nhóm quan niệm ban đầu như sau:
- Vật nặng thì chìm, vật nhẹ thì nổi;
- Vật ngấm nước thì chìm, vật không ngấm nước thì nổi;
- Vật đặc thì chìm, vật rỗng thì nổi;
- Vật có đáy hẹp thì chìm, vật có đáy rộng thì nổi;
...
Pha 3: Xây dựng giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
Tổ chức cho HS nêu các quan niệm ban đầu và thảo luận. Chú ý làm cho HS phát hiện được những mâu thuẫn như:
- Có vật rất nặng nhưng nổi, ngược lại có vật rất nhẹ nhưng lại chìm;
- Các vật nổi luôn có một phần bị ngập trong nước. Vật càng nặng thì phần bị chìm vào nước càng nhiều;
- Các vật nổi có thể nằm cân bằng trên mặt nước.
...
Từ những quan niệm ban đầu, HS đưa ra các câu hỏi như:
- Lực "đỡ" cho các vật nổi trên mặt nước có liên quan gì đến phần vật bị ngập trong chất lỏng không?
- Với các vật bị chìm vào trong nước thì có lực "đỡ" như đối với các vật nổi không?
GV yêu cầu HS đề xuất các phương án thí nghiệm nhằm tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi mà HS nêu ra bằng cách nêu các câu hỏi:
- Theo các em, làm thế nào để có thể kiểm tra xem lực "đỡ" của nước có phụ thuộc gì vào phần bị ngập trong nước hay không?
- Theo các em, ta có thể kiểm tra xem vật bị ngập trong nước có chịu tác dụng của lực "đỡ" như trường hợp vật nổi hay không, bằng cách nào? nếu có thì lực đó có thể đo được độ lớn của nó không và đo bằng cách nào?
HS đề xuất các phương án thí nghiệm:
- Tìm hiểu xem phần bị ngập của vật trong nước phụ thuộc thế nào vào trọng lượng của vật, dùng quả bóng bàn, bơm dần nước vào trong và thả lên mặt nước để quan sát phần bị ngập vào trong nước.
- Để tìm hiểu xem có lực nào tác dụng lên vật ngập trong nước hay không và nếu có thì độ lớn bằng bao nhiêu, dùng lực kế treo vật vào để đo trọng lượng khi ở ngoài không khí, sau đó nhúng vật ngập vào nước và quan sát số chỉ của lực kế.
Pha 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu:
GV phát cho HS các dụng cụ thí nghiệm:
- Một số vật như: hòn sỏi, miếng sắt, miếng bấc hoặc nút nhựa...
- Bóng bàn: 3 quả;
- Xi lanh có kim tiêm;
- Bộ thí nghiệm lực đẩy Ác - si - mét gồm: bình chia độ, bình tràn, lực kế và g

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ap_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_va.doc