Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán hình học phẳng

pdf 10 trang Người đăng nguyenlan45 Lượt xem 3600Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán hình học phẳng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rèn luyện kĩ năng giải các bài toán hình học phẳng
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 
GIẢI CÁC BÀI TOÁN HÌNH HỌC PHẲNG 
**************** 
I) Suy nghĩ về việc học Toán Hình học phẳng hiện nay. 
Có khi nào chúng ta tự hỏi làm thế nào để giải một bài toán Hình học phẳng (HHP) chưa? 
Hay làm sao để có thể giỏi môn HHP, làm sao một bạn nào đó có thể giải nhanh gọn và ấn tượng 
một bài toán HHP, còn mình thì không? Đúng là những vấn đề này rất thường được đặt ra nhưng 
muốn trả lời một cách thỏa đáng và đầy đủ thì quả là điều không đơn giản! 
Cũng giống như các dạng toán khác, để giải một bài toán HHP nào đó, chúng ta cũng cần phải 
đi từ giả thiết, thông qua các suy luận để tìm ra con đường đến kết luận hoặc một yêu cầu nào đó 
đặt ra của đề bài. Nhưng đặc biệt hơn, ở môn HHP, ngoài những tư duy logic thông thường, chúng 
ta còn cần phải có tư duy hình tượng, chúng ta cần phải tìm được quan hệ giữa các yếu tố hình học 
thông qua cái nhìn trực quan. Với đặc trưng đó, một mặt làm cho chúng ta có thể thấy được vấn đề 
đang cần giải quyết một cách rõ ràng hơn nhưng mặt khác cũng đòi hòi ở chúng ta một khả năng 
tưởng tượng phong phú và sâu sắc nếu muốn học tốt dạng Toán này. 
Trên thực tế, trong những học sinh giỏi Toán, không có nhiều người giỏi HHP; khi tham gia các 
kì thi HSG, họ sẵn sàng bỏ đi một câu HHP nào đó để có thời gian dành cho những bài Toán khác. 
Nhưng hầu như trong tất cả các kì thi, ta đều thấy sự góp mặt của một hoặc hai bài Toán HHP nào 
đó với khoảng 15-25% số điểm cả đề và như thế nó thực sự quan trọng! 
Có một điều lạ là chúng ta học hình học với thời gian nhiều hơn bất cứ dạng Toán nào khác. 
Ngay từ lớp 6 chúng ta đã làm quen với các khái niệm điểm, đoạn thẳng, đường thẳng, góc, Đến 
lớp 7 chúng ta đã biết định lí là gì và học cách chứng minh chúng: chứng minh hai góc đối đỉnh thì 
bằng nhau, chứng minh tổng ba góc của tam giác là 1800,Và chúng ta học và rèn luyện chúng 
suốt cho đến bây giờ, thời gian đó dài hơn việc học bất cứ một bài toán sử dụng đạo hàm, một bài 
giới hạn hay lượng giác nào đó. Thế nhưng, dường như Hình học luôn không là một lựa chọn hàng 
đầu khi bắt đầu cho lời giải của một đề thi HSG. Thậm chí đó còn là nỗi ám ảnh, lo sợ của nhiều 
bạn HSG Toán. Khi nhìn thấy một bài hình nào đó, họ cố đưa về Đại số càng nhanh càng tốt và sẵn 
sàng chấp nhận biến đổi, khai thác những biểu thức cồng kềnh thay vì bài toán đó có thể giải một 
cách nhẹ nhàng bằng hình học thuần túy. 
Ta cũng không phủ nhận rằng học và giỏi ở HHP không phải là chuyện dễ, có thế cần năng 
khiếu và rèn luyện lâu dài, phải làm nhiều dạng bài tập để tích lũy cho mình những kinh nghiệm và 
sự nhạy bén cần thiết để khi đối mặt với một bài HHP nào đó mà không bị ngỡ ngàng, lúng túng. 
Chẳng hạn như có nhiều học sinh THCS có thể giỏi HHP hơn học sinh THPT là cũng bởi lí do năng 
khiếu này. Thế nhưng, chẳng may không có năng khiếu thì sao, chẳng lẽ lại bỏ cuộc? Tất nhiên là 
vẫn còn cách giải quyết, chúng ta hãy tham khảo một số hướng giải quyết và gợi ý rèn luyện sau 
đây để khắc phục và mong rằng những điều này có thể giúp các bạn rút ra được cho bản thân một ý 
tưởng mới nào đó cho việc học HHP trong thời gian tới. 
Thế nhưng, đa số các bạn chưa giỏi HHP thường ghét phần này và tránh làm các bài toán về 
hình học; do đó, trước hết các bạn hãy làm quen và tiếp xúc nhiều với nó, và lâu dần các bạn có thể 
tìm thấy trong sự thú vị mà những bài toán HHP đem lại một sự tiến bộ nào đó cho mình. 
* Chúng ta hãy suy nghĩ về các vấn đề sau: 
 Làm sao để rút ngắn con đường đi từ giả thiết đến kết luận? 
 Làm sao để tận dụng hết giả thiết đề bài cho? 
 Làm sao đưa các kiến thức hình học sẵn có (như một phương pháp hoặc một định lí nào 
đó) cho việc giải một bài toán HHP? 
 Làm cách nào để có thể kẻ đường phụ giải một bài toán? 
 Làm sao để nâng cao hơn trình độ HHP nếu chúng ta đã có một năng lực nhất định? 
 Các nội dung trình bày dưới đây sẽ làm rõ điều đó: 
MỘT BÀI TOÁN ĐƠN GIẢN NHƯNG KẺ NHIỀU ĐƯỜNG PHỤ 
 * Lời giải của các VD được trình bày dưới đây chủ yếu là dựa trên hướng suy nghĩ chính, 
chú trọng phân tích các bước lập luận chứ không đi sâu vào xét các trường hợp của hình vẽ có thể 
xảy ra nhằm hạn chế sự phức tạp. Dù vậy trên thực tế, khi giải các bài toán HHP, chúng ta nên chú 
ý điều này, nên xét hết các trường hợp (vị trí các điểm, các tia; phân giác trong, ngoài; tam giác 
cân, không cân; đường tròn thực sự và suy biến,...) để đảm bảo lời giải được đầy đủ và chính xác! 
II) Một số cách rèn luyện tư duy hình học và nâng cao kĩ năng giải toán HHP. 
1) Lựa chọn công cụ thích hợp để giải một bài toán HHP. 
Chúng ta hãy thử ngẫm nghĩ lại, khi đang là học sinh THPT như hiện nay, chúng ta đã biết được hết 
thảy bao nhiêu phương pháp giải một bài toán HHP. Có thể chúng ta biết nhiều định lí, bổ đề nhưng 
đó cũng chưa thể gọi là một phương pháp theo nghĩa tổng quát. Ở đây, ta nói đến phương pháp là 
định hướng, là tư tưởng chính của lời giải; giải bằng cách nào chứ chưa đi sâu vào việc giải như thế 
nào. Xin nêu một số phương pháp cơ bản sau: 
- Phương pháp hình học thuần túy (quan hệ song song, vuông góc; tam giác đồng dạng, bằng 
nhau; tính chất của tam giác, đường tròn; các định lí hình học quen thuộc; các phép biến hình,). 
- Phương pháp lượng giác (đưa yếu tố trong bài về lượng giác của các góc và biến đổi). 
- Phương pháp vectơ (dùng vectơ trong chứng minh tính chất hình học hoặc dựng một hệ 
vectơ đơn vị để giải bài toán). 
- Phương pháp đại số (đưa các yếu tố trong bài về độ dài cạnh và biến đổi). 
- Phương pháp tọa độ (đưa giả thiết đã cho vào một hệ trục tọa độ và tìm tọa độ điểm, phương 
trình đường thẳng, đường tròn liên quan). 
 Trong đó, mức độ tư duy hình học được thể hiện giảm dần qua thứ tự các phương pháp trên. 
Nếu chúng ta là một học sinh chưa giỏi HHP thì thường với các bài toán có giả thiết “thuận lợi” thì 
lập tức sử dụng tọa độ, điều đó tất nhiên có ích cho kĩ năng tính toán, biến đổi đại số của chúng ta 
nhưng nói chung không có lợi cho việc rèn luyện tư duy hình học. Và đa số các bài toán hình khó 
có thể sử dụng phương pháp này, chỉ cần một đường tròn hoặc một tâm đường tròn nội tiếp đã 
khiến cho việc dùng phương pháp tọa độ thật khó khăn rồi. Thế nhưng không phải nói vậy mà ta lại 
quên đi phương pháp đó được. Có vài bạn đã khá ở nội dung này thì lại không thích sử dụng tọa độ 
và cố đi tìm một cách giải thuần túy cho nó. Công việc này không phải lúc nào cũng đúng, nhất là 
đối với các kì thi HSG có thời gian “gấp rút” và số lượng bài toán cần giải được lại tương đối nhiều. 
 Chúng ta hãy thử nói về một bài toán đơn giản sau: 
 VD1: Cho đoạn thẳng AB cố định và đường thẳng d cố định song song với AB. Điểm C di 
động trên d. Tìm quỹ tích trực tâm tam giác ABC. 
* Phân tích: Một số bạn thấy bài toán này 
có giả thiết thật đơn giản, chỉ có đoạn 
thẳng cố định, một điểm di động trên 
đường thẳng song song rồi tìm trực tâm; 
thêm nữa, bài toán này có vẻ quen thuộc 
nên họ chỉ vẽ hình ra và cố gắng kẻ 
đường phụ để giải. Thế nhưng, chắc chắn 
các bạn này sẽ khó mà tìm được một lời 
giải hình học thuần túy cho bài toán này 
khi mà trên thực tế quỹ tích của H là một 
đường parabol! 
Nếu không cẩn thận vẽ hình trước nhiều 
lần để dự đoán quỹ tích, chắc chắn rằng 
đây không còn là một quỹ tích đường 
H
OA B
C
thẳng, đường cong thông thường mà mò mẫn đi tìm không đúng cách sẽ không đi đến kết quả muốn 
có. Bài toán này không khó nhưng nếu không lựa chọn đúng công cụ thì không thể nhanh chóng 
thành công trong việc giải nó được. 
* Giải: 
 Trong mặt phẳng tọa độ Oxy, xét A (-1; 0), B (1; 0) và đường thẳng d có phương trình: 
, 0y a a  , do C di động trên đó nên có tọa độ là C (m; a), m . 
Ta sẽ tìm tọa độ trực tâm của tam giác ABC. 
Phương trình đường cao của tam giác ứng với đỉnh C là: x = m; 
Phương trình đường cao ứng với đỉnh A là: ( 1)( 1) 0 ( 1) 1 0m x ay m x ay m          
Tọa độ trực tâm của tam giác ABC là nghiệm của hệ: 
2
( 1) 1 0
1
x mm x ay m
mx m y
a

     
    
. Suy ra: 
21 xy
a

 
Vậy quỹ tích của H là parabol có phương trình: 
21 xy
a

 . 
 VD2: Cho tam giác ABC có cạnh BC cố định, A di động trong mặt phẳng. Gọi G, H lần 
lượt là trọng tâm, trực tâm của tam giác. Biết rằng đoạn GH cắt BC tại trung điểm của GH, tìm 
quỹ tích của A. 
* Phân tích. Ta thấy giả thiết của bài toán không phức 
tạp nhưng điều kiện GH cắt BC tại trung điểm của GH 
quả thật hơi khó vận dụng; ta cũng có thể hiểu đơn giản 
hơn là trung điểm của GH thuộc BC nhưng vậy thì cũng 
không đem lại nhiều gợi ý cho lời giải bài toán. Và nếu 
đứng trước những bài toán có giả thiết đơn giản nhưng 
khó vận dụng như thế thì hãy thử nghĩ đến phương pháp 
tọa độ. Khi đó, dù các tính chất hình học chưa được thể 
hiện đầy đủ nhưng các điều kiện hình học thì sẽ được 
đảm bảo chặt chẽ hơn. 
Cũng tiến hành lựa chọn một hệ trục tọa độ thích hợp 
tương tự như trên rồi tính tọa độ các điểm G, H và viết 
phương trình các đường thẳng cần thiết, đặt vào điều kiện của bài toán, ta sẽ tìm được quỹ tích của 
điểm A chính là một đường hypebol. Các bạn thử giải lại bài toán này với việc giữ nguyên các giả 
thiết ban đầu, chỉ thay trực tâm H bằng tâm đường tròn ngoại tiếp O, các công việc nói chung cũng 
được tiến hành tương tự nhưng dù vậy ta cũng có thêm một khám phá mới. Và nếu được, hãy giải 
lại hai bài toán vừa rồi bằng phương pháp hình học thuần túy dựa trên định nghĩa các đường conic, 
tìm tiêu điểm và đường chuẩn của chúng! Đây là một vấn đề không đơn giản. 
* Ta hãy so sánh hai phương pháp giải bài toán sau để rút ra tầm quan trọng của việc lựa chọn 
phương pháp phù hợp giải các bài toán HHP: 
H
G
A
B C
 VD3: Cho tam giác ABC. Phía ngoài tam giác ABC dựng các điểm D, E, F sao cho các 
tam giác BCD, CAE, ABF là các tam giác đều. Chứng minh hai tam giác ABC và DEF có cùng 
trọng tâm. 
Giải: 
*Cách 1. Sử dụng phương pháp vectơ: (khá nhẹ nhàng và không cần tốn nhiều thời gian để nghĩ ra 
cách giải này). 
Gọi M, N, P lần lượt là trung điểm của BC, CA, AB. Ta có: 
( ) ( )AD BE CF AM MD BN NE CP PF AM BN CP MD NE PF             
              
Dễ thấy: 1 1 1( ) ( ) ( ) 0
2 2 2
AM BN CP AB AC BA BC CA CB        
         
Và 0MD NE PF  
   
 theo định lí con nhím nên: 0AD BE CF  
   
Vậy hai tam giác ABC và DEF có cùng trọng tâm. 
*Cách 2. Sử dụng hình học phẳng thuần túy: (dựng nhiều đường phụ, hướng suy nghĩ hơi thiếu tự 
nhiên và đòi hỏi có kinh nghiệm về các bài toán có giả thiết tương tự như thế này). 
Gọi I là trung điểm EF và Q là điểm đối xứng với D qua BC, khi đó: BCQ cũng là tam giác đều. 
Ta thấy phép quay tâm B góc quay 600 biến C thành Q, biến A thành F nên: 
ABC FBQ   , tương tự: 
 ABC EQC   FBQ EQC   . 
Suy ra: FQ = AC = AE, QE = AB = 
AF và tứ giác AEQF là hình bình 
hành. Do đó: 
I chính là trung điểm của AQ, mà M 
là trung điểm của QD nên IM chính là 
đường trung bình của tam giác QAD 
1
2
IM AD  và IM //AD. 
Gọi G là giao điểm của AM và ID thì 
theo định lí Thalès: 
1
2
GM GI IM
GA GD AD
   . 
Hơn nữa G cùng thuộc hai trung tuyến 
của tam giác ABC và DEF nên nó 
chính là trọng tâm chung của hai tam 
giác ABC và DEF. 
Vậy hai tam giác ABC và DEF có 
cùng trọng tâm (đpcm). 
 * Trong việc giải các bài toán bằng phương pháp tọa độ, ta cũng cần chú ý đến việc chọn 
các hệ trục tọa độ hợp lí: tọa độ các điểm, phương trình đường thẳng cần viết đơn giản; có nhiều 
liên hệ với các điểm đã cho trong giả thiết, tận dụng được các yếu tố đường song song, vuông góc, 
trung điểm do hình cần dựng đơn giản, Chẳng hạn chúng ta có bài toán sau: 
Q
I
G
P
F
E
N
D
M
A
B
C
 VD4: Cho tam giác ABC có D là trung điểm của cạnh BC. Gọi d là đường thẳng qua D 
và vuông góc với đường thẳng AD. Trên đường thẳng d lấy một điểm M bất kì. Gọi E, F lần lượt 
là trung điểm của các đoạn thẳng MB, MC. Đường thẳng qua E vuông góc với d cắt đường 
thẳng AB tại P, đường thẳng qua F vuông góc với d cắt đường thẳng AC tại Q. Chứng minh 
rằng đường thẳng qua M, vuông góc với đường thẳng PQ luôn đi qua một điểm cố định khi M di 
động trên đường thẳng d. 
* Phân tích. Ta thấy trong đề bài này 
các giả thiết đưa ra chỉ xoay quanh 
các yếu tố như trung điểm, đường 
vuông góc, đoạn thẳng,... nhưng vì có 
hơi nhiều yếu tố như vậy nên việc 
liên kết chúng lại và đảm bảo sử 
dụng được tất cả các giả thiết quả là 
điều không dễ dàng. Chúng ta có một 
lời giải bằng cách sử dụng phương 
pháp hình học thuần túy nhờ kiến 
thức trục đẳng phương như sau 
nhưng nó hơi phức tạp vì cần phải kẻ 
nhiều đường phụ: 
*Giải. 
Gọi H, K lần lượt là hình chiếu của B, C lên đường thẳng d. 
 Do D là trung điểm của BC nên DH = DK, suy ra AD là trung trực của HKAH =AK. 
Gọi ( ) là đường tròn tâm A đi qua H và K. 
Gọi H’, K’ lần lượt là các điểm đối xứng với H, K qua các đường thẳng AB, AC 
H’, K’ thuộc ( ) . 
Giả sử các đường thẳng HH’, KK’ cắt nhau tại I thì I là điểm cố định. (*) 
Ta có : PE // BH (cùng vuông góc với d) mà PE đi qua trung điểm của MB nên cũng qua trung 
điểm của MHPE là trung trực của MH  PH = PM. 
 Gọi 1( ) là đường tròn tâm P đi qua H và M, do tính đối xứng nên H’ cũng thuộc 1( ) . 
Hoàn toàn tương tự, ta cũng có: QF là trung trực của MK; nếu gọi 2( ) là đường tròn tâm Q đi qua 
K và M thì K’thuộc 2( ) . Ta lại có: 
+ ( ) , 1( ) cắt nhau tai H, H’ nên HH’ là trục đẳng phương của ( ) , 1( ) . 
+ ( ) , 2( ) cắt nhau tai K, K’ nên KK’ là trục đẳng phương của ( ) , 2( ) . 
Mặt khác : M cùng thuộc 1( ) , 2( ) và P, Q lần lượt là tâm của 1( ) , 2( ) nên đường thẳng d’ qua 
M, vuông góc với PQ chính là trục đẳng phương của 1( ) , 2( ) . 
Từ đó suy ra: HH’, KK’, d’ đồng quy tại tâm đẳng phương của ba đường tròn ( ) , 1( ) , 2( ) (**) 
Từ (*) và (**) suy ra d’ đi qua I là điểm cố định. 
 Vậy đường thẳng qua M, vuông góc với đường thẳng PQ luôn đi qua một điểm cố định khi M di 
động trên đường thẳng d. Ta có đpcm. 
d
d'
QI
P
H'
K'
K
H
FE
D
A
B
C
M
 * Ta có thể sử dụng phương pháp tọa độ để giải nhẹ nhàng bài này vì việc xác định tọa độ 
trung điểm và viết phương trình đường vuông góc cho các biểu thức đơn giản, đó cũng chính là đáp 
án chính thức của đề thi HSGQG này. Thế nhưng, cũng không phải cách chọn trục tọa độ nào cũng 
cho ta một lời giải nhanh gọn. Nếu chọn hệ trục tọa độ gốc D và trục hoành trùng với BC theo suy 
nghĩ thông thường thì lời giải sẽ dài và phức tạp hơn so với chọn gốc tọa độ là D và trục hoành là 
đường thẳng d. Các bạn hãy thử với cách này sẽ thấy ngay sự khác biệt đó! 
 Qua các VD trên, ta thấy rằng việc lựa chọn công cụ thích hợp để giải các bài toán hình 
học cũng là một yếu tố quan trọng để có thể đi đến kết quả một cách đơn giản và ngắn gọn hơn, 
nhiều khi đó cũng là cách duy nhất có thể giải quyết được vấn đề. 
2) Về việc tận dụng giả thiết của đề bài. 
 Trong một bài toán thông thường, các giả thiết đưa ra, dù ít hay nhiều, dù gián tiếp hay trực 
tiếp, thì ở trong bất cứ lời giải nào của bài toán đều được tận dụng. Một bài toán càng có ít giả thiết 
thì nói chung việc sử dụng chúng càng đơn giản bởi không phải dễ dàng gì cho việc đưa hàng loạt 
giả thiết, yếu tố, các quan hệ hình học vào lời giải của mình. Mỗi giả thiết đưa ra đều có mục đích 
và tầm quan trọng nhất định; nhiệm vụ của chúng ta là xác định xem cái nào là quan trọng nhất và 
làm sao để tận dụng và liên kết tất cả vào trong lời giải bài toán của mình! 
Trước hết, ta hãy đặt câu hỏi : “giả thiết đó nói lên điều gì?”, chẳng hạn cho giả thiết: tam giác 
ABC có M, N, P là trung điểm các cạnh, điều đó gợi cho ta suy nghĩ rằng: 
- Các cạnh của tam giác MNP song song và bằng nửa các cạnh của tam giác ABC 
tương ứng; 
- Tam giác MNP đồng dạng với tam giác ABC với tỉ số đồng dạng là ½; 
- Diện tích tam giác MNP băng ¼ diện tích tam giác ABC; 
- Phép vị tự tâm G – trọng tâm tam giác ABC với tỉ số -1/2 biến tam giác ABC đã cho thành 
tam giác MNP; 
- Hai tam giác này có cùng trọng tâm; 
- Đường tròn ngoại tiếp tam giác MNP chính là đường tròn Euler nên nó cũng đi qua chân các 
đường cao và trung điểm các đoạn nối trực tâm và đỉnh của tam giác ABC; 
- Trực tâm của tam giác MNP cũng là tâm đường tròn ngoại tiếp của tam giác ABC, ... 
 * Có thật nhiều suy nghĩ từ một giả thiết và nếu ta bỏ sót một trong số chúng thì có thể 
không giải được bài toán vì đó chính là chìa khóa vấn đề (tất nhiên cũng không phải dùng hết các 
ý). Chúng ta càng có được nhiều liên tưởng khi kiến thức hình học của chúng ta càng nhiều và 
kinh nghiệm càng sâu sắc, điều đó đòi hỏi ta cần làm một số lượng nhất định các bài toán HHP. 
 Tiếp theo ta lại hỏi: “vậy nếu chưa có nhiều kinh nghiệm thì sao?”, tất nhiên cũng có một 
cách nhỏ này giúp ta có thể thấy trực quan hơn giả thiết đó. Chúng ta hãy thử đi tìm cách dựng 
các “giả thiết” đó bằng thước và compa, nhất là với các giả thiết có phần phức tạp, điều này nhiều 
lúc cũng rất có ích. Chúng ta thử tìm hiểu rõ điều đó qua bài toán sau: 
 VD5: Cho tam giác ABC có K là điểm nằm trong tam giác và thỏa:  KAB KBC KCA  . 
Gọi D, E, F lần lượt là tâm đường tròn ngoại tiếp các tam giác KBC, KCA, KAB. 
Gọi M, N, P lần lượt là giao điểm của BC, FD; CA, DE; AB, EF. Chứng minh rằng: các tam 
giác ABC, DEF, MNP đồng dạng với nhau. 
* Phân tích: Ta thấy điểm K cho như trên là một giả thiết quen thuộc (điểm Brocard) nhưng nói 
chung các tính chất ta đã biết về nó không phục vụ nhiều cho điều cần chứng minh ở đây. Nếu như 
ta vẽ một hình đơn điệu như bên dưới thì việc giải và định hướng cho bài toán sẽ không đơn giản. 
Ta sẽ thử dùng phép dựng hình xác định điểm K trong giả thiết bằng thước và compa để xem thử nó 
có tính chất gì đặc biệt không. Ta dễ dàng có được phép dựng hình sau: 
- Dựng trung trực của đoạn AB và đường thẳng vuông 
góc với BC tại B, gọi F là giao điểm của hai đường 
thẳng trên. 
- Dựng đường tròn tâm F bán kính FA. 
- Tương tự, dựng điểm E là giao điểm của trung trực 
AC và đường thẳng vuông góc với AC tại A. 
- Dựng đường tròn tâm E, bán kính EA. 
- Giao điểm của hai đường tròn trên chính là điểm K 
cần tìm. 
 Từ việc tìm cách dựng cho điểm K, ta cũng đã có 
thêm trên hình một số đường phụ cần thiết, bài toán đã 
rõ ràng hơn nhiều. Với những gợi ý có được từ hình vẽ 
ta vừa dựng, có thể giải quyết được bài toán này theo 
cách như sau: 
- Chứng minh AK EF,BK DE  . 
- Chứng minh:   0AKB DFE 180  . 
- Chứng minh:   0AKB ABC 180  
- Suy ra: ABC EFD(g.g)  
- Suy ra tứ giác BMPF nội tiếp và 
MP EF . 
- Chứng minh:  MPN FED . 
- Chứng minh: MPN FED(g.g)  . 
Từ đó suy ra đpcm. 
 * Còn đối với các bài toán mà 
hình vẽ không thể dựng được bằng 
thước và compa thì sao, chẳng hạn 
như định lí Mooley: “Cho tam giác 
ABC. Các đường chia ba các góc của 
tam giác cắt nhau tại các điểm M, N, 
P. Chứng minh tam giác MNP đều.” 
Ta biết rằng việc chia ba một góc không thể dựng được bằng thước và compa nên cách tìm gợi ý từ 
việc dựng hình không thể thực hiện được. Và có lẽ vì vậy mà đến sau hơn 50 năm xuất hiện, bài 
toán nổi tiếng này mới có một lời giải HHP thuần túy rất đẹp và hoàn chỉnh. Nhưng đó là câu 
chuyện của những bài toán nổi tiếng thế giới; trên thực tế, nếu cần thiết, chúng ta luôn có thể dùng 
cách dựng hình này cho việc tìm gợi ý cho bài toán và tận dụng được giả thiết của đề bài. 
N
P
M
F
C
K
D
E
A
B
N
P
M
F
C
K
D
E
A
B
 3) Về việc rút ngắn con đường đi từ giả thiết đến kết luận. 
 Cũng tương tự phần trên, ta cũng đặt các câu hỏi: “kết luận đó từ đâu mà ra?”, “những điều 
đó có liên hệ gì đến giả thiết của chúng ta có?”. Chúng ta cũng tiến hành đi ngược lên từ điều cần 
chứng minh, tìm ra các điều cần phải có để tìm ra có được kết luận. 
 VD6: Cho tam giác ABC có đường cao BD và CE cắt nhau tai H. M là trung điểm của 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfOXY.pdf