Hệ thống kiến thức văn bản học kì I Ngữ văn lớp 8

doc 7 trang Người đăng dothuong Lượt xem 1237Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống kiến thức văn bản học kì I Ngữ văn lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ thống kiến thức văn bản học kì I Ngữ văn lớp 8
Hệ thống kiến thức 8 văn bản học kỳ i lớp 8
TT
Tên tác phẩm
Thể loại VH 
PT biểu đạt
Tác giả và xuất xứ tác phẩm
Tóm tắt ngắn gọn
Nội dung chính
Nghệ thuật đặc sắc
1
Tôi đi học
Truyện ngắn
Tự sự, miêu tả, biểu cảm
Tác giả Thanh Tịnh (1911-1988), tên khai sinh là Trần Văn Ninh, quê ở xóm Gia Lạc, ven sông Hương, ngoại ô thành phố Huế. Từ năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi vào nghề dạy học và bắt đầu viết văn, làm thơ. Sáng tác của T.Tịnh thường tóat lên vẻ đẹp độc đáo, tình cảm êm dịu, trong trẻo. Tác phẩm chính: Hận chiến trường, Quê mẹ, Ngậm ngải tìm trầm, Sức mồ hôi, Những giọt nước biển.. Truyện ngắn Tôi đi học in trong tập quê mẹ, xuất bản năm 1941
Hàng năm cứ vào cuối thu, khi cảm nhận được khoảnh khắc giao mùa và thấy mấy em nhỏ lần đầu tiên tới lớp, lòng Thanh Tịnh lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường đầu tiên, khi ông vẫn còn là một cậu bé. Sớm hôm ấy, chú bé T.Tịnh được mẹ dắt đi trên con đường làng quen thuộc. Chợt điều gì cũng trở nên thật mới mẻ và xa lạ với chú. Ngôi trường bỗng trở nên to cao, đông đúc và uy nghi lạ thường. Chú lúng túng lo sợ, toan khóc như bao nhiêu bạn khác. Nhưng rồi ông đốc đã nhẫn nại khuyên nhủ, dẫn chú và đám bạn vào lớp. Chú được học bài học đầu tiên ở trong lớp, bài học có tên “Tôi đi học”.
Bố cục 2 phần:
_ Phần 1 : Mùa thu gợi nhớ ngày tựu trường
_ Phần 2 : Tâm trạng của nhân vật tôi với những kỷ niệm mơn man ngày đầu tiên đi học
 + Trên con đường cùng mẹ tới trường
 + Khi nhìn ngôi trường và bạn bè mới
 + Khi nghe gọi tên vào lớp và rời bàn tay mẹ
 + Khi ở trong lớp với giờ học đầutiên.
 Nội dung: Gợi lại ngày khai trường đầu tiên với những kỷ niệm mơn man không bao giờ phai nhạt.
_ Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm
_ Ngôn ngữ giàu cảm xúc
_ Các phép tu từ (nhân hóa, so sánh, điệp từ)
_ Sử dụng các từ láy và động từ gợi cảm
2
Trong lòng mẹ
Hồi ký
Tự sự, miêu tả, biểu cảm
Tác giả Nguyên Hồng (1918-1982), tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định. Trước cách mạng, ông sống chủ yếu ở thành phố cảng Hải Phòng, trong một xóm lao động nghèo. Ngay từ tác phẩm đầu tay, ông đã hướng ngòi bút về những người cùng khổ gần gũi mà ông yêu thương thắm thiết. Sau Cách mạng, Nguyên Hồng viết cả tiểu thuyết, kí, thơ, nổi bật hơn cả là các bộ tiểu thuyết sử thi nhiều tập. Nguyên Hồng được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm chính : Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Cửa biển, Núi rừng Yên Thế, Bước đường viết văn “Những ngày thơ ấu” là tập hồi kí về tuổi thơ cay đắng của tác giả. Tác phẩm gồm 9 chương, đăng báo năm 1938, in thành sách năm 1940. Đoạn trích “Trong lòng mẹ” là chương IV của tác phẩm.
Sau khi người cha nghiện ngập qua đời, mẹ bé Hồng cũng bỏ vầo Thanh Hóa buôn bán, Hồng phải sống dựa vào nhà nội, trong sự cay nghiệt ghẻ lạnh của họ hàng. Gần đến ngày dỗ cha, cô Hồng gọi cậu lại, kể về mẹ Hồng, rắp tâm gieo rắc vào trí óc cậu những điều xấu xa về mẹ. Nhưng Hồng đã sớm nhận ra âm mưu thâm độc của bà cô, vẫn giữ vững niềm tin và tình yêu với mẹ. Cuộc nói chuyện kết thúc trong sự uất ức, tủi nhục và những giọt nước mắt của Hồng. Chiều ngày giỗ cha, Hồng bất ngờ gặp lại Mẹ, được mẹ vuốt ve, âu yếm. Những lời cay độc của bà cô thoáng hiện ra trong trí óc cậu nhưng rồi cũng tan biến ngay.
Bố cục 2 phần:
 _ Phần 1 : Bé Hồng trong cuộc nói chuyện với bà cô
 _ Phần 2 : Bé Hồng và cảm giác sung sướng, hạnh phúc khi được ở trong lòng mẹ.
Nội dung: Kể lại một cách chân thực và cảm động những cay đắng, tủi cực cùng tình thương yêu cháy bỏng của nhà văn dành cho người mẹ bất hạnh thời thơ ấu.
_ Hồi ức chân thực, cảm động
_ Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc
_ So sánh đầy ấn tượng
_ Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
3
Tức nước vỡ bờ
Tiểu thuyết
Tự sự, miêu tả, biểu cảm
 Tác giả Ngô Tất Tố (1893 – 1954), quê ở làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; xuất thân là một nhà nho gốc nông dân. Ông là một học giả có nhiều công trình khảo cứu về triết học, văn học cổ có giá trị; một nhà báo nổi tiếng với nhiều bài báo mang khuynh hướng dân chủ tiến bộ và giàu tính chiến đấu ; một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về người nông dân trước Cách mạng. Ông được nhà nước truy tặng giải thường Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm chính : Tắt đèn, Lều chõng, Tập án cái đình, Việc làng Văn bản “Tức nước vỡ bờ” trích trong chương XVIII của tác phẩm “Tắt đèn” – tác phẩm nổi tiếng nhất của Ngô Tất Tố
Ngày thu sưu thuế, bầu không khí ngột ngạt, căng thẳng bao trùm lên cả làng. Vốn thuộc hạng “nhất nhì cùng đinh”, anh Dậu không đủ tiền nộp sưu nên bị bọn cai lệ bắt trói, hành hạ ở sân đình. Anh Dậu không chịu nổi ngất đi, bọn cai lệ tưởng anh đã chết, khiêng về trả cho chị Dậu. Với bát gạo bà hàng xóm mang sang, chị Dậu nấu cháo cho chồng ăn cho lại sức. Anh vừa bưng bát lên thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào quyết bắt trói anh, mặc cho chị Dậu ngăn cản, van xin. Chị Dậu không chịu được nữa, liều mạng cự lại, đuổi chúng ra khỏi nhà.
Nội dung: Vạch trần bộ mặt tàn ác của xã hội thực dân phong kiến đương thừoi, đẩy người nông dân vô tội vào tình cảnh khốn cùng, đồng thồi bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
_ Xây dựng nhân vật đặc sắc
_ Ngòi bút miêu tả sinh động, linh họat
_ Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả, đối thoại đặc sắc
_ Cốt truyện gần gũi với làng quê Việt Nam.
_ Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm
_ Động từ mạnh mẽ, ấn tượng
4
Lão Hạc
Truyện ngắn
Tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Tác giả Nam Cao (1915-1951), tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác trong công tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hi sinh trên đường công tác vùng sau lưng địch. Nam Cao được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm chính : truyện ngắn Đời thừa, Trăng sáng, Chí phèo, Lão Hạc, Đôi mắt, Một đám cưới, truyện dài Sống mòn , bút ký Chuyện biên giới, tập nhật kí ở rừng
Lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai lão không đủ tiền lấy vợ, phẫn chí bỏ đi phu ở đồn điền cao su. Lão chỉ còn lại cậu Vàng. Nhưng vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đành phải bán con chó. Còn ba mươi đồng bạc, lão gửi ông giáo để khi lão chết thì khỏi phiền làng xóm và nhờ ông giáo trông hộ mảnh vườn. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói là định bắt con chó lạ vẫn quanh quẩn trong vường. Nghe chuyện, ông giáo rất buồn. Nhưng bỗng nhiên lão Hạc lăn ra chết, cái chết thật dữ dội. Cả làng chẳng ai hiểu vì sao, chỉ mình Binh Tư và ông giáo hiểu.
Nội dung : Thể hiện một cách chân thực và cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ
_ Xây dựng tình huống truyện bất ngờ
_ Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, có chiều sâu.
_ Cách kể chuyện đặc sắc
_ Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm.
5
Cô bé bán diêm
Truyện ngắn
Tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Tác giả An-đéc-xen (1905 – 1975) , nhà văn Đan Mạch nổi tiếng với những truyện ngắn viết cho thíêu nhi. Có những chuyện là do ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện là do ông hoàn toàn sáng tạo ra. Bạn đọc khắp năm chău đã quen với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm, Bỗy chim thiên nga, Nàng công chúa và hạt đậu Văn bản này trích gần hết truyện ngắn Cô bé bán diêm 
Đêm giao thừa rét mướt, một cô bé mồ côi mẹ dò dẫm trong tối đi bán diêm. Cả ngày em không bán được que diêm nào, không dám về nhà vì sợ bố đánh. Em ngồi nép vào xóc tường, đánh liều quẹt một que diêm cho đỡ lạnh. ánh lửa diêm bùng lên, em thấy một lò sưởi ấm áp. Quẹt tiếp que diêm thứ hai, em thấy một bàn ăn thịnh soạn với ngỗng quay, có cả dao ăn và phuốc-sét. Que diêm thứ ba sáng lên, em thấy một cây thông Nô-en lộng lẫy. Lại một que diêm khác, em thấy bà hiện ra , nhân từ và hiền hậu. Cứ thế em quẹt hết số diêm còn lại, gặp được bà và hai bà cháu cùng về chầu thượng đế. Mồng một đầu năm, mọi người thấy một em bé chết cóng bên đường với những que diêm bên cạnh, nhưng không ai biết được những điều kỳ diệu mà em đã thấy trong đêm
Nội dung : Tác phẩm thể hiện lòng thương cảm sâu sắc của tác giả dành cho những cảnh đời bất hạnh như em bé bán diêm, qua đó nêu lên số phận những trẻ em thiếu thốn về cả vật chất và tình cảm trong một xã hội thiếu vắng tình người; phê phán những con người lạnh lùng trước số phận kẻ khác.
_ Cách kể chuyện đặc sắc, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng.
_ Tình tiết, diễn biến truyện hợp lý
_ Nghệ thuật tương phản đối lập.
_ Những hình ảnh tiêu biểu, giàu sức gợi cảm
_ Sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và cổ tích.
6
Đánh nhau với cối xay gió
Tiểu thuyết
Tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Tác giả Xéc–van–tét (1547 – 1616), nhà văn Tây Ban Nha, vốn là binh sĩ bị thương năm 1571 trong một trận thủy chiến, bị bắt giam ở An-giê từ năm 1575 đến năm 1580. Trở về Tây Ban Nha, ông sống một cuộc đời cực nhọc và âm thầm, cho đến khi công bố tiểu thuyết Đôn-ki-hô-tê, gồm 2 phần : phần 1 52 chương, phần 2 74 chương. Đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” nằm ở chương 18, 19 của tác phẩm.
Hai thầy trò Đôn-ki-hô-tê đang đi chợt nhìn thấy những chiếc cối xay gió ở giữa cánh đồng. Đôn-ki-hô-tê quả quyết đó là những tên khổng lồ xấu xa và lao vào đánh nhau với chúng mặc cho Xan-chô Pan-xa ngăn cả. Gió thổi mạnh khiến cánh quạt quay làm gãy mũi giáo và hất Đôn-ki-hô-tê ngã. Cả người lẫn ngựa đều bị thương rất nặng nhưng Đôn-ki-hô-tê vẫn cho rằng mình thất bại là do bị phù phép, nín nhịn không kêu đau và lại lên đường. Trên đường đi, dù Xan-chô ăn uống no say, Đôn-ki-hô-tê vẫn không cần ăn, cho rằng chỉ cần thức và nghĩ tới tình nương là đủ rồi
Nội dung : Văn bản nêu lên sự tương phản về mọi mặt giữa Đôn-ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa thể hiện qua cuộc chiến đấu với những chiếc cối xay gió của Đôn-ki-hô-tê trên đường phưu lưu, đồng thời phê phán sự hỗn loạn của xã hội Tây Ban Nha thời bấy giờ và thể hiện thông điệp của tác giả mong ước con người vừa có lý tưởng vừa thực tế
_ Tương phản đối lập làm nổi bật tính cách hai nhân vật
_ Giọng văn hóm hỉnh, hài hước kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm.
_ Tính cách nhân vật được xây dựng một cách nhất quán à Tạo nên được tính điển hình của nhân vật.
7
8
Chiếc lá cuối cùng
Hai cây phong
Truyện ngắn
Truyện vừa
Tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Tự sự , miêu tả và biểu cảm.
Tác giả O Hen-ri (1862 – 1910), nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Nhiều truyện của ông đã để lại cho bạn đọc những ấn tượng sâu sắc như Căn gác xép, Tên cảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ, Các truyện của O Hen-ri thường nhẹ nhàng nhưng tóat lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình yêu thương người nghèo khổ, rất cảm động. Đoạn trích này là phần cuối truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng.
Tác giả Ai-ma-tốp (1928) là nhà văn Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hòa Trung á, thuộc Liên Xô trước đây. Nhiều tác phẩm của ông quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Cây phong non trùm khăn đỏ, Người thầy đầu tiên, Con tàu trắng, Văn bản Hai cây phong trích trong phần đầu truyện Người thầy đầu tiên
Giôn-xi, Xiu và cụ Bơ-men là 3 họa sĩ nghèo sống trong một khu trọ tồi tàn gần công viên Oa-sinh-tơn. Xiu và Giôn-xi yêu nhau như chị em ruột. Nhưng rồi Giôn-xi không may bị bện sưng phổi. Cô tuyệt vọng, ngồi đếm những chiếc lá cuối cùng trên cây thường xuân trước cửa, chờ khi nào chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô cũng buông xuôi, lìa đời. Cụ Bơ-men và Xiu rất lo cho cô. Nhưng rồi sau hai đêm mưa bão, chiếc lá cuối cùng vẫn bám chặt vào cành cây. Giôn-xi nhìn thấy sức sống mãnh liệt của chiếc lá, lại tin vào cuộc sống và đã qua cơn nguy hiểm. Tuy nhiên cụ Bơ-men tự dưng lại bị viêm phổi nặng và qua đời chỉ trong hai ngày. Sau đó Xiu mới phát hiện ra và kể cho Giôn-xi rằng cụ Bơ-men đã cảm lạnh trong cái đêm đi vẽ chiếc lá cuối cùng và đó chính là kiệt tác mà cụ mong đợi
Mỗi khi trở về làng, người họa sĩ lại ưa mắt tìm hai cây phong – hai ngọn hải đăng trên đất liền - đánh dấu vị trí của làng Ku-ku-rêu. Đi xa thì nhớ, trở về lại mang nỗi buồn da diết, một nỗi mong nhớ không nguôi. Trong làng không thiếu các loại cây nhưng hai cây phong nổi bật hơn hẳn, chúng có tiếng nói riêng và tâm hồn riêng chứa chan những lời ca êm dịu. Hai cây phong mở ra chân trời mới với những ước mơ và cuộc đời của người họa sĩ và các bạn. Sau này dù đã lớn lên, nhưng cách cảm thụ tuổi thơ của hai người họa sĩ không hề mất đi. Duy chỉ có một điều mà người họa sĩ mãi không hiểu, đó là tại sao quả đồi có hai cây phong ấy lại được gọi là “Trường Đuy-sen”
Bố cục 2 phần:
_ Phần 1 : Những người họa sĩ nghèo
_ Phần 2 : Kiệt tác “Chiếc lá cuối cùng”.
 Nội dung: Văn bản ca ngợi tình yêu thương cao cả của những con người nghèo khổ, qua đó nêu lên thông điệp mà tác giả gửi gắm: Tác phẩm nghệ thuật chân chính là kết tinh của tài năng và lòng nhân ái.
Bố cục 3 phần:
_ Hai cây phong và quê hương
_ Hai cây phong và ký ức tuổi thơ
_ Hai cây phong và thầy Đuy-sen.
Nội dung: văn bản truyền cho chúng ta tình yêu quê hương da diết và lòng xúc động đắc biệt về câu chuyện thầy Đuy-sen, người đã vun trng những hi vọng, ước mơ cho các học trò của mình.
_ Bố cục chặt chẽ
_ Xây dựng tình huống truyện bất ngờ
_ Miêu tả tâm lý nhân vật tiinh tế
_ Kết thúc mở tạo nhiều cảm xúc.
_ Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm
_ Các phép tu từ
_ Ngòi bút giàu chất hội họa
_ Từ tượng hình, tượng thanh sử dụng có hiệu quả

Tài liệu đính kèm:

  • doche_thong_vb_lop_8.doc