Giáo án môn Triết học - Bài 1: Những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật (Tiết 12)

docx 9 trang Người đăng duyenlinhkn2 Ngày đăng 20/07/2022 Lượt xem 379Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Triết học - Bài 1: Những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật (Tiết 12)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo án môn Triết học - Bài 1: Những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật (Tiết 12)
Bài 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
(Tiết 12)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Về kiến thức
- Hiểu được bản chất của nhận thức, thấy được lược sử các quan niệm về nhận thức. 
- Hiểu được thế nào là thực tiễn, thế nào là lý luận và mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận.
2. Về kĩ năng
Giải thích được tính quyết định của thực tiễn đối với lý luận và ý thức được tầm quan trọng của lý luận trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
3. Về thái độ
Giúp người học có thái độ đúng đắn trong quan niệm về lý luận và thực tiễn, có ý thức tìm hiểu thực tế, tránh sa vào bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
B. PHƯƠNG PHÁP
- Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp như: Phương pháp đàm thoại, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp trực quan.
C. PHƯƠNG TIỆN
- Giáo trình, giáo án (máy vi tính, máy chiếu).
D. TÀI LIỆU 
1. Tài liệu bắt buộc
- Giáo trình "Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh", Nxb Lý luận chính trị.
2. Tài liệu tham khảo
- Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, (2002)
- Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, (1986)
 - Tập bài giảng Triết học Mác – Lênin, tập I. 
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Chính trị Quốc gia, (2002)
E. NỘI DUNG BÀI GIẢNG
4. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
4.1. Bản chất của nhận thức
4.1.1. Quan niệm về nhận thức trước Mác
	* Duy tâm chủ quan: cho rằng mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp của cảm giác của con người, do đó, nhận thức chẳng qua là sự nhận thức các cảm giác, biểu tượng của con người, là sản phẩm thuần tuý chủ quan của con người.
	* Duy tâm khách quan (Heghen): thừa nhận tính khách quan của nhận thức tuy nhiên họ lại cho rằng nhận thức không phải là phản ánh hiện thực khách quan mà là sự tự nhận thức về thế giới ý niệm, thế giới tinh thần tồn tại ở đâu đó.
	* Những người theo thuyết hoài nghi (Hium): coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Họ cho rằng con người chỉ nhận thức được các thuộc tính bề ngoài, còn bản chất bên trong của sự vật thì không thể nhận thức được.
	* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
=> Hạn chế của các quan điểm ngoài mácxít về nhận thức là gì?
Tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác- Lênin đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
4.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn. Điều này có nghĩa là Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và loài người.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, không có gì mà con người không thể nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức được mà thôi.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng, có vận động biến đổi, phát triển, đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn nhưng không có giới hạn cuối cùng.
- Nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích nhận thức, tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
=> Vậy bản chất của nhận thức là gì?
è Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội cụ thể.
=> Tính sáng tạo của nhận thức thể hiện như thế nào? Nêu ví dụ?
4.2. Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận
4.2.1. Khái niệm thực tiễn
- Khái niệm: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, mang tính lịch sử, có mục đích của con người cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Đặc trưng của thực tiễn:
Một là, thực tiễn không phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất – cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng.
Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định.
Ba là, thực tiễn là hoạt động có mục đích – nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người tiến bộ. Điều này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn.
 - Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm vật chất nhằm duy trì sự tồn tại thiết yếu của mình.
 	Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
 	Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong đều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, nó có vai trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.
- Giữa các dạng hoạt động thực tiễn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định. Bởi vì nó là hoạt động khách quan, thường xuyên nhất tạo ra điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển; đồng thời cũng tạo điều kiện để tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn các dạng hoạt động khác nếu tiến bộ thì tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất vật chất được tăng cường, nếu phản tiến bộ thì kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.
Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng (hình thức) hoạt động làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
4.2.2. Khái niệm lý luận
- Khái niệm: Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Đặc trưng của lý luận:
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, khái quát cao, tính logic chặt chẽ.
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.Không có tri thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượng.
4.2.3. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
4.2.3.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận.
+ Cơ sở: Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho sự vật bộc lộ các thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người hiểu biết về chúng.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu quả hơn, giúp con người nhận thức sự vật chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Động lực: Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời, trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là nơi rèn luyện giác quan con người. Các cơ quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận.
Xét đến cùng, mọi nhận thức, lý luận đều để lý giải thực tiễn và phục vụ cho những nhu cầu của thực tiễn đặt ra. Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ con người. Thực tiễn chính là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức – kết quả của nhận thức.
Ví dụ: Trong thực tiễn, hiện tượng tai nạn giao thông diễn ra ở nhiều nơi với mức độ nghiêm trọng. Từ đó đặt ra yêu cầu phải đưa ra giải pháp để khắc phục hiện tượng trên.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý, là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới "vật chất hóa" được tri thức, "hiện thực hóa" được tư tưởng.
Ví dụ: các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thực tiễn nếu phù hợp sẽ thúc đẩy thực tiễn phát triển nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển. Dựa vào kết quả thực tiễn chúng ta sẽ nhận thấy chủ trương, chính sách đó là phù hợp hay không phù hợp. 
Tiêu chuẩn kiểm tra chân lý của thực tiễn vừa có tinh tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn trong những giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi phát triển nên khi thực tiễn thay đổi thì những chân lý cũng phải thay đổi theo.
4.2.3.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
+ Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.
+ Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
+ Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động thực tiễn chủ động, tự giác, giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.
4.2.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan điểm thực tiễn đòi hỏi chủ thể nhận thức và thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Nhận thức, đề ra đường lối, chủ trương, chính sáchphải trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, từ những nhu cầu của thực tiễn.
+ Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.
Để nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết không thể không dựa vào lý luận, vào những tri thức đã đạt được. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở những cái đó, suy luận ra là không đủ và rất dễ dẫn tới lý luận suông, không sát với thực tiễn cuộc sống. Lối tư duy chỉ dựa vào lý thuyết, lý luận là lối tư duy tư biện chủ quan, là lối tư duy không khoa học.
Thực tiễn không chỉ là hoạt động để cải tạo thế giới đem lại lợi ích cho con người, mà còn là một công cụ, phương tiện quan trọng của nhận thức. Biết sử dụng thực tiễn như là công cụ nhận thức, nhận thức con người về thế giới sẽ đúng đắn và sâu sắc hơn.
+ Theo sát sự biến đổi và phát triển của thực tiễn, tăng cường tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ sung, phát triển nhận thức và hành động cho phù hợp với thực tiễn.
Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, thực tiễn thay đổi, nhận thức cũng phải thay đổi theo nếu không sẽ rơi vào cứng nhắc, giáo điều lạc hậu. Hơn nữa, qua thực tiễn, tổng kết thực tiễn sẽ có được thêm những tri thức mới, kinh nghiệm mới để điều chỉnh nhận thức, bổ sung và phát triển nhận thức.
+ Phải tôn trọng thực tiễn, căn cứ vào thực tiễn mà kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức lý luận cũng như chủ trương, chính sách, biện pháp.
Những tri thức lý luận, những chủ trương, chính sách, giải pháp được hình thành từ thực tiễn, từ tổng kết, kết quả kinh nghiệm thực tiễn thông qua tư duy của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách. Vì vậy nó chứa đựng khả năng chưa phản ánh đúng đắn thực tiễn. Chỉ được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới đánh giá được tính chân lý, bác bỏ được sai lầm.
Nhận thức có đúng, có sai, chủ trương, chính sách có cái phù hợp, có cái chưa phù hợp đó là thực tế. Nhưng nếu tôn trọng thực tiễn, biết lắng nghe tiếng nói từ thực tiễn sẽ sớm phát hiện những sai lầm, những cái chưa hợp lý để khắc phục, sửa đổi, bổ sung và phát triển nhận thức.
Ví dụ như: Những lệch lạc, sai lầm mà chủ nghĩa xã hội mắc phải, tình trạng lạc hậu về lý luận ở các nước chủ nghĩa xã hội trước đây sở dĩ kéo dài và phải trả những giá đắt do thiếu tôn trọng thực tiễn, bất chấp thực tiễn, gò thực tiễn vào lý luận giáo điều cứng nhắc, khi thất bại lại đổ lỗi cho thực tiễn.
- Phê phán bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
Việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thường dẫn đến hai sai lầm cực đoan bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đây là hai “căn bệnh” mà chúng ta đã mắc phải một cách tương đối phổ biến trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã gây ra những tác hại không nhỏ trong thực tế; lý luận trở nên lạc hậu, thiếu sức sống; thực tiễn kém hiệu quả, thậm chí phải trả những giá đắt.
- Bệnh giáo điều: là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử cụ thể. Bệnh giáo điều ở nước ta thường biểu hiện:
+ Bệnh sách vở, nắm lý luận nghị quyết, chủ trương, chính sách chỉ dừng lại ở câu chữ chung chung, không nắm được thực chất khoa học của lý luận, không cụ thể hoá nghị quyết, chủ trương, chính sách được cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của ngành, địa phương, cơ sở, đơn vị.
+ Coi những nguyên lý, lý luận như những tín điều, coi chủ trương, chính sách như là cái bất di bất dịch, không thấy được sức sống của lý luận của chủ trương, chính sách là ở chỗ luôn luôn sửa đổi, bổ sung và phát triển trên cơ sở thực tiễn mới.
+ Vận dụng lý luận, những kinh nghiệm đã có và những chủ trương, chính sách một cách rập khuôn, máy móc, không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể, đến trình độ của thực tiễn.
- Bệnh kinh nghiệm: là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học. Bệnh kinh nghiệm thường biểu hiện:
+ Thoả mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, ngại học lý luận, không chịu khó nâng cao trình độ lý luận.
+ Tiếp xúc với lý luận ở trình độ tư duy kinh nghiệm từ đó đơn giản hoá, thông tục hoá, kinh nghiệm hoá lý luận, cố gắng “đẽo gọt” lý luận cho vừa với khuôn khổ, kích thước kinh nghiệm của mình.
+ Coi thường lý luận, không tin vào lý luận và không chịu khó vận dụng lý luận vào thực tiễn.
G. CỦNG CỐ BÀI HỌC

Tài liệu đính kèm:

  • docxgiao_an_mon_triet_hoc_bai_1_nhung_van_de_co_ban_cua_phep_bie.docx