Đề thi Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh

doc 19 trang Người đăng haibmt Lượt xem 1714Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối hợp với các GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.
Thế mà, trong thực tế có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ giáo viên chủ nhiệm lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này chưa đúng với các văn bản luật cũng như các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả những phương pháp giáo dục lỗi thờiỞ đâu đó, còn tồn tại chuyện học sinh đánh thầy cô giáo chủ nhiệm của mình; giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thô bạo đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi giờ học, rút dép đánh học trò trong lớp, cho cán bộ lớp dùng roi dâu đánh bạn học hàng giờ, bắt học trò liếm ghế, bắt học sinh đi bằng đầu gối 100 vòng quanh lớp, bắt viết 100 bản tự kiểm điểm v.v... Ngược lại có những giáo viên chủ nhiệm lớp quá dễ dãi, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn v.v... 
Vì vậy, trong năm học 2006 - 2007, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh”.
II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục tiêu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường THPT.
2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu lý luận về các GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình như thế nào trong công tác giáo dục đạo đức HS và đã đạt kết quả như thế nào?
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS trong trường THPT.
- Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế.
III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Khách thể.
- Thực trạng và giải pháp cho vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS.
2. Đối tượng. 
- Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
- Do tuổi đời, tuổi nghề còn ít và thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ vận dụng ở lớp 12/5 trường THPT Phạm Phú Thứ - Đà Nẵng năm học 2006-2007.
4. Giả thuyết khoa học.
- Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong trường THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: 
+ Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Phương pháp điều tra:
+ Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, hội cha mẹ học sinh(CMHS), bạn bè và hàng xóm của HS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo , tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+ Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp 12/5 trường THPT Phạm Phú Thứ - Đà Nẵng năm học 2006-2007.
6. Thời gian thực hiện.
Bắt đầu : 01/ 08 / 2006
Kết thúc : 31 / 01 / 2007
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THPT
Trước hết, ta cần xác định rõ vai trò của GVCN lớp. Nhưng thực tế nhiều người đã coi nhẹ và lẫn lộn họ với các giáo viên bộ môn(GVBM) khác. Ví dụ: hàng năm không làm nhiệm vụ bổ nhiệm chức vụ chủ nhiệm lớp, không công bố quyết định đó trước toàn trường, trước hội phụ huynh của trường, hiện nay gọi là ban đại diện hội CMHS mà chỉ ghi ở thời khóa biểu như mọi GV bình thường khác có giờ dạy. Đáng lẽ phải làm đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm tuỳ theo thành tích hoặc sai phạm mà họ mắc phải. Về mặt đánh giá xếp loại GV, nhiều cán bộ quản lý chỉ coi trọng chuyên môn mà chưa coi trọng hiệu quả công tác quản lý lớp ở GVCN, lại có biểu hiện lệch lạc khi lớp có khuyết điểm thì quy trách nhiệm cho họ, khi lớp có thành tích thì lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể với thành tích chính quyền, cụ thể là công của các cán bộ ngành dọc chứ chưa hẳn là của tập thể lớp do GVCN lãnh đạo. Tuy vậy cũng cần phải thấy trong thực tế có những GVCN yếu, vai trò của mình mờ nhạt nên dấu ấn của công tác đoàn thể sâu đậm hơn, vai trò của chính quyền bị lấn át, từ đó càng tạo ra sự nhìn nhận thiên lệch. Có nhiều GVCN lớp đặc biệt là chủ nhiệm trẻ chưa biết mình có một quyền hạn nên chưa ai dám làm là đi dự giờ các GVBM trong lớp khi mình thấy cần. GVCN được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật học sinh theo quy định, được hưởng giờ công tác theo định mức quy định, có chăng loại sổ sách làm việc pháp quy trong hệ thống sổ sách của nhà trường. Từ đó nếu có nhiều chủ nhiệm lớp trong trường có năng lực và bản lĩnh thì công cuộc giáo dục sẽ đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
II. Những yếu tố của GVCN lớp
1. Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt.
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Cũng như hiệu trưởng, chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường học, lớp học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn. Phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
2. GVCN lớp là tấm gương sáng cho HS noi theo.
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh về GV. Bản thân tôi vừa là GVCN đồng thời là GVBM Vật Lý - Kỹ thuật công nghiệp. Vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, tôi đều có những tác phong làm gương cho học sinh. 
Soạn bài trước khi đến lớp. Theo tôi, chỉ khi nào thầy cô cảm thấy hứng thú với bài dạy thì sự hứng thú đó mới lây truyền sang HS. Sự hứng thú này đi đôi với sự soạn bài trước và có một chương trình trước cho những gì phải làm trong giờ học thay vì một thái độ "tùy cơ ứng biến". GV cần chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học trước khi dạy. Người dạy càng tận tâm thì các em càng cố gắng học.
Khi lên lớp, theo tôi, GV cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khoát. Khi nói nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói như nói với chính mình hay nói khơi khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu , hợp với trình độ học sinh. Biết lắng nghe học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý nghe trở lại. 
Bên cạnh đó, GVCN biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời, hứa sẽ tìm câu trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại cho thầy cô để nói chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích chữ khó, cách trả lời ...). Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
III. Đặc điểm lớp 12/5
Năm học 2004 - 2005, lớp 12/5 chính là lớp 10/6 của trường THPT Phạm Phú Thứ. Đây là lớp học có tỉ lệ học sinh yếu kém về học lực và hạnh kiểm khá cao(hơn 10 em thi lại và rèn luyện trong hè). Lớp xếp vị thứ 24/24 lớp trong tổng kết thi đua cuối năm. Nhờ sự giúp đỡ, quan tâm của BGH và GVCN, GVBM rèn luyện thêm cho các em trong hè 2005 nên kết quả lên lớp được 9 em.
Năm học 2005-2006, do đặc điểm của trường về phòng học nên lớp 10/6 có sự thay đổi. Một số em chuyển sang lớp khác, trường khác nên lớp chuyển thành lớp 11/5. Kết quả năm học này khả quan hơn(13/24) song nề nếp học sinh vẫn chưa đi vào nghiêm túc thật sự. Chính vì vậy, đến năm học 2006-2207 lớp 12/5 bên cạnh những thuận lợi còn có rất nhiều khó khăn.
1. Thuận lợi:
- Bản thân tôi đã chủ nhiệm lớp năm 11 nên năm học này giữa giáo viên và học sinh đã phần nào hiểu nhau.
- Đa số HS ngoan hiền, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức.
- HS trong lớp có ý thức xây dựng tập thể lớp .
- Giữa GVCN, phụ huynh học sinh và BGH luôn phối hpợ chặt chẽ trong công tác giáo dục.
2. Khó khăn:
- Đa số HS hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện xóa đói giảm nghèo:
Phước Bảo, Minh Mãi, Minh Tâm, Văn Trạng
- Nhà ở xa trường học: Lộng Gió(Đại La), Kim Thảo(Đại La),Cẩm Nhung(Hòa Trung - Hòa Ninh), Tuyết Nhung(Hòa Liên); Phước Vĩ(Đông Sơn - Hòa Ninh)
- Một số học sinh thiếu thốn tình cảm(chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn xa, mồ côi): H.D, K.T
IV. Biện pháp thực hiện
1. Lựa chọn ban cán sự lớp.
a) Cơ sở lựa chọn:
- Căn cứ vào hồ sơ học bạ của HS.
- Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu mỗi năm học. 
b) Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp:
- Ban cán sự lớp đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước Nhà trường về toàn bộ hoạt động học tập, rèn luyện, đời sống của lớp trong thời gian học. Ban cán sự lớp do tập thể lớp bầu ra, được GVCN quyết định công nhận. Nhiệm kỳ của Ban cán sự lớp là một năm. 
- Cơ cấu của Ban cán sự lớp: 
(Xem ở sơ đồ tổ chức lớp trang 8)
- Nhiệm vụ của lớp trưởng: Lớp trưởng là người điều hành, quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp, cụ thể:
+ Tổ chức, quản lý lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo quy định của Bộ Giáo dục và Ðào tạo, Sở GD & ĐT và Nhà trường; 
+ Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh quy chế, quy định, nội quy về học tập và sinh hoạt của Bộ Giáo dục và Ðào tạo, Sở GD & ĐT và Nhà trường. Xây dựng và thực hiện nề nếp tự quản trong HS;
+ Tổ chức, động viên giúp đỡ những HS gặp khó khăn trong học tập, rèn luyện và đời sống;
+ Chịu sự điều hành, quản lý của trực tiếp của GVCN lớp; 
+ Chủ trì các cuộc họp lớp để đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, bình xét học bổng, đề nghị thi đua khen thưởng đối với tập thể và cá nhân HS trong lớp. 
- Nhiệm vụ của các lớp phó:
+ Ðôn đốc sinh viên đi học đầy đủ, đúng giờ, đảm bảo học tập nghiêm túc;
+ Ðiểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, kịp thời;
+ Lập danh sách HS thuộc diện đối tượng ưu tiên, hoàn cảnh khó khăn, báo cáo với giáo viên chủ nhiệm; 
+ Tổ chức và quản lý HS thực hiện lao động XHCN và các hoạt động liên quan đến sinh hoạt đời sống vật chất và tinh thần của lớp;
+ Tổ chức động viên, thăm hỏi những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, tai nạn...
- Nhiệm vụ của Bí thư Đoàn :
+ Nắm bắt và tiếp thu những thông báo, chỉ thị của Đoàn trường để kịp thời triển khai cho Đoàn viên trong chi đoàn thực hiện đầy đủ;
+ Thực hiện các phong trào ủng hộ, quyên góp do huyện Đoàn và Đoàn trường phát động.
- Nhiệm vụ của Ban cán sự bộ môn:
+ Thực hiện và duy trì sinh hoạt 15 phút đầu giờ theo chủ đề lớp đã chọn.
2. Lập sơ đồ tổ chức lớp học.
a) Căn cứ để lập sơ đồ lớp:
- Căn cứ vào học lực của HS: HS yếu kém, chậm tiến ngồi trước; HS khá giỏi ngồi sau.
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của HS: HS thấp trước, cao sau; HS mắt yếu ngồi gần bảng.
- Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau.
b) Sơ đồ tổ chức lớp học của lớp 12/5 như sau :
(Xem trang 09)
* Chú ý : trong quá trình lập sơ đồ, có thể thay đổi một số vị trí nếu thấy không phù hợp. 2-4 sơ đồ lớp/1 năm học.
3. Vai trò của GVCN trong việc kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội.
a) Cơ sở lí luận:
Vai trò nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh.
Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, HS nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và nhà trường góp phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho HS THPT phải kết hợp chặt chẽ với gia đình. 
Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS. Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất nên nhà trường nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện hút v.v  cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục đạo đức, không ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của HS. Nhà trường dù là một pháo đài vững chắc nhưng vẫn có thể bị "tập kích" từ phía ngoài. Nhà trường không phải là một ốc đảo tách khỏi xã hội, tách xa thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội đang có các nhân tố của kinh tế thị trường tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ nhàng, có khi sôi động dồn dập. Xã hội ô nhiễm, luồng văn hoá ngoại lai, đồi truỵ, bạo lực... len lỏi vào mọi tầng lớp nhân dân đã rất dễ gây ấn tượng và phản ảnh sâu đậm đối với trẻ.
GVCN biết kết hợp và phát huy nhằm giáo dục về tình hình và nhiệm vụ của đất nước, tình hình thời sự, chính trị trong nước và thế giới (có định hướng chính trị rõ ràng); giáo dục về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội - chính trị trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, về quyền tự do, dân chủ và trách nhiệm công dân; bồi dưỡng một số kỹ năng sinh hoạt chính trị - xã hội cần thiết. 
b) Biện pháp thực hiện nhằm giáo dục HS cá biệt và tránh tình trạng HS bỏ học:
- Thực trạng:
+ Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh cá biệt, mà những học sinh này đa số gây không ít khó khăn cho GVCN, đôi khi họ rất mệt mỏi vì nói hoài mà các em không nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc các em sẽ co lại và phá phách hoặc chống đối ngầm. Điều này không những khó khăn cho GV mà còn có thể ảnh hưởng đến chuyện thi đua của cả lớp nữa. 
+ GVCN thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện do HS gây ra, nhưng chỉ ở mức độ là khuyên bảo, dạy kèm ngoài giờ cho HS quá yếu kém, còn đối với HS cá biệt về đạo đức thì răn đe, xử phạt, thậm chí còn hù dọa, nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả tức thời thôi rồi đâu lại vào đó, HS vẫn trở lại như cũ vì do GV không hiểu được nguyên nhân sâu phát xuất từ tâm lý của trẻ. 
+ Cũng có GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng của trẻ với mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu và cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh con trước mặt giáo viên rồi dẫn con về cho... nghỉ học luôn vì cảm thấy xấu hổ. Điều này đã cho thấy chính phụ huynh cũng bất lực trước con mình... 
+ HS không có tội, nếu sống trong một gia đình lành mạnh thì HS sẽ có một nhân cách tốt và ngược lại, vì thế HS chỉ là nạn nhân mà thôi. 
- Tìm hiểu nguyên nhân: 
+ Lâu nay, chỉ thường nghe cụm từ “học sinh cá biệt” - ám chỉ những đứa trẻ có vẻ khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. Trong trường, HS dạng cá biệt về đạo đức thường quậy phá, đánh lộn, trộm cắp, nổi bật vai trò thủ lĩnh, lập băng nhóm... nhẹ hơn một chút là dạng nữa về học tập, HS không học bài, làm bài, HS chậm hiểu và rất mau quên... Và HS bị gọi "cá biệt" là HS có khiếm khuyết về tâm lý, do HS bị ảnh hưởng từ trong gia đình của HS, đa số chúng ta khi thấy hành động khác thường, không ngoan của HS thì cho là cá biệt và xử lý trên hành động do HS gây ra mà quên là cần phải tìm cho ra nguyên nhân. Đôi khi sự cá biệt của những HS ấy lại do từ cha mẹ chúng...cuộc sống vợ chồng không hoà thuận, từ đó có ảnh hưởng đến đặc điểm tâm sinh lý của HS. 
+ Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành "cá biệt", đó là hậu quả của các vết thương tâm lý mà vô tình người lớn chúng ta đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi trường gia đình cũng như ở trường học.
+ Gia đình khó khăn; một số học sinh bị bệnh và điều đáng lưu tâm là một số học sinh ham chơi, học kém, chán học, bỏ học...
- Giải pháp:
+ Trước hết, chúng ta hãy thương yêu HS, cố gắng để giúp HS vượt qua những biến cố, những vấn đề đã xảy trong quá trình sống và nó đã trở thành vết thương tâm lý khó phai mờ trong tâm hồn HS. 
+ HS cá biệt thì cần được sự giúp đỡ trong học hành, lối sống.
+ GVCN cần có nề nếp kỷ cương để HS tự nhận thức, tự khép mình trong những nội quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao đổi, thỏa sức đóng góp. Tuân theo tập thể và cống hiến cho tập thể; luôn gắn lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, chính là một trong những chuẩn mực, điều kiện để giáo dục HS. Trong trường cần có dân chủ đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính Thầy, Thầy phải quí trò. Chúng ta phải hiểu dân chủ trong trường học trước hết là do nhu cầu sống chính của nhà giáo, của HS và CMHS.
+ Tổ chức vận động các gia đình, các đoàn thể XH cùng phối hợp, thống nhất nội dung, mục đích, biện pháp giáo dục HS trong trường và cụm dân cư.
+ Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể lớp, trường, địa phương. 
+ Thuyết phục bằng lời lẽ có lý, có tình, bằng tình cảm và phép tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của HS như: trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt. 
 + Đưa các em vào hoạt động tập thể thực tiễn như hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường, vui chơi, thăm quan du lịch qua đó hiểu thêm HS, gắn bó học sinh với tập thể, xoá đi những thiếu sót. 
+ Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, tế nhị mà hiệu quả. 
+ Xây dựng nếp sống văn minh, văn hoá thanh lịch, xây dựng tình thương yêu đoàn kết. 
+ Nhà trường, các đoàn thể, các ngành các gia đình cùng tổ chức giáo dục đạo đức  cho HS. 
+ Đầu tư cho con em học tập, vui chơi thoả đáng.
+ Không nên chỉ mời CMHS khi thấy cần thiết hay xảy ra sự cố trong trường học, lớp học mà nên xem việc gặp gỡ, trao đổi với CMHS là chuyện bình thường.
c) Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS:
- Ngay từ buổi họp mặt với CMHS đầu năm, chúng tôi đã cùng nhau thảo luận và đi đến thống nhất những tiêu chí để xếp loại hạnh kiểm HS(có thông qua tập thể HS ở tiết sinh hoạt chủ nhiệm) như sau: 
(Xem ở trang 14)
* Chú ý : GVCN phải luôn luôn bám sát vào nội dung của thông tư 23/29 v/v hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh THPT - Bộ GD & ĐT; chủ trương, nội quy HS của Nhà trường, Đoàn trường đã đề ra. Xếp hạnh kiểm HS theo từng tháng, trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, bình xét công khai dân chủ, có biên bản kèm theo.
4. Giáo dục đạo đức HS thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm.
Theo qui định, tiết chủ nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để GV tổng kết tình hình học tập, vệ sinh, chuyên cần... của lớp; 30 phút còn lại tổ chức cho HS sinh hoạt ...Mỗi tiết sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên bản(mẫu ở trang 16).
Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp. Thông qua sổ đàu bài, sổ cờ đỏ c

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_GVCN_GIOI_3.doc