Đề thi và đáp án THPT quốc gia năm 2015 - Môn văn

doc 4 trang Người đăng haibmt Lượt xem 8505Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi và đáp án THPT quốc gia năm 2015 - Môn văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi và đáp án THPT quốc gia năm 2015 - Môn văn
ĐỀ THI và ĐÁP ÁN THPT QUỐC GIA NĂM 2015- MÔN VĂN- Thời gian : 180’
Phần đọc hiểu (3.0 điểm) 
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4: 
Chúng tôi đứng đây trần trụi giữa trời 
Cho biển cả không còn hoang lạnh 
Đứa ở đồng chua 
Đứa vùng đất mặn 
Chia nhau nỗi nhớ nhà
 Hoàng hôn tím ngát xa khơi
 Chia nhau tin vui 
Về một cô gái làng khểnh răng, hay hát
 Vầng trăng lặn dưới chân lều bạt 
Hắt lên chúng tôi nhếnh nhoáng vàng 
Chúng tôi coi thường gian nan 
Dù đồng đội tôi có người ngã trước miệng cá mập 
Có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn
 Ngày mai đảo sẽ nhô lên
 Tổ Quốc Việt Nam một lần nữa nối liền Hoàng Sa, Trường Sa
 Những quần đảo long lanh như ngọc dát 
Nói chẳng đủ đâu, tôi phải hát
 Một bài ca bằng nhịp trái tim tôi 
Đảo à, đảo ơi! 
Đảo Thuyền Chài – 8- 1982
 (Trích: Hát về một hòn đảo – Trần Đăng Khoa, Trường Sa, NXB Văn học, 2014, tr. 51)
Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào?
-Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2. Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy trên đảo của người lính được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh nào? 
-Cuộc sống gian khổ và nguy hiểm trên đảo của những người lính được miêu tả qua những từ ngữ “chân lều bạt”, “có người ngã trước miệng cá mập”, “có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn”
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: Những quần đảo long lanh như ngọc dát.
-Câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh: so sánh những quần đảo với ngọc dát.
-Hiệu quả của biện pháp tu từ: thể hiện vẻ đẹp của biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa với một niềm tự hào và tự tôn dân tộc.
 Câu 4. Đoạn thơ đã gợi cho anh/ chị tình cảm gì đối với những người lính đảo? (Trình bày khoảng 5 – 7 dòng). 
Gợi ý : Đoạn thơ gợi lên cho chúng ta tình cảm yêu mến, cảm phục trước tinh thần vượt lên gian khổ và sự lạc quan của người lính đảo. Từ đó, HS có thể nêu trách nhiệm của bản thân đối với việc giữ gìn biển đảo quê hương.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8: 
 Hội chứng vô cảm hay nói cách khác là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm vui, nhất là nỗi đau của người khác, vốn là một mặt trong hai phương diện cấu trúc bản chất Con – Người của mỗi sinh thể người. Tính “con” và tính “người” luôn luôn hình thành, phát triển ở mỗi con người từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt, xuôi tay. Cái thiện và cái ác luôn luôn song hành theo từng bước đi, qua từng cử chỉ, hành vi của mỗi con người trong mối quan hệ với cộng đồng,với cha mẹ, anh chị em, bạn bè, và con hàng xóm, đồng bào, đồng loại. Trong cuộc hành trình lâu dài, gian khổ của một đời người, cái mất và cái được không phải đã được nhận ra một cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng ăn, mất một phần cơ thể, mất một vật sở hữu con người nhận biết ngay. Nhưng có những cái mất, cái được nhiều khi lại không dễ gì cảm nhận được ngay. Nhường bước cho một cụ già cao tuổi, nhường chỗ cho bà mẹ có con nhỏ trên tàu xe chật chội, biếu một vài đồng cho người hành khất. có mất có được nhưng không phải ai cũng đã nhận ra cái gì mình đã thu được; có khi là sự thăng hoa trong tâm hồn từ thiện và nhân ái. Nói như một nhà văn lớn, người ta chỉ lo túi tiền rống đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. Tôi muốn đặt vấn đề là cùng với sự rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. Tôi muốn đặt vấn đề là cùng với sự báo động những hiểm họa trông thấy, cần báo động cả hiểm họa không trông thấy hay khó trông thấy. Hiện nay, đã có quá nhiều dấu hiệu và sự kiện trầm trọng của hiểm họa vô cảm trong xã hội ta, nhất là trong tuổi trẻ. Bạo lực đã xuất hiện dữ dằn những tháng ngày gần đây báo động nguồn gốc sâu xa ở sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn, về bệnh vô cảm.
 (Trích: Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa, Bài tập Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr 36- 37)
 Câu 5. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
-Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn là nghị luận.
 Câu 6. Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì? 
-Nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây chính là ở sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn, về bệnh vô cảm.
Câu 7. Tác giả đã thể hiện thái độ gì khi bàn về hiểm họa vô cảm trong xã hội hiện nay? Câu 8. Anh/ chị suy nghĩ như thế nào khi có những người “chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần”? (Trình bày khoảng 5 đến 7 dòng). 
Gợi ý : Trong cuộc sống, con người luôn tồn tại hai giá trị vật chất và tinh thần. Nhưng sự nông nổi của con người là đôi khi quá chạy theo giá trị tầm thường của vật chất mà không chú ý đến giá trị về mặt tinh thần. cái rỗng về tinh thần mới là cái đáng lo và đáng sợ nhất.
PHẦN LÀM VĂN Câu 1 (3.0 điểm)
 Có ý kiến cho rằng: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức. 
Anh/ chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề trên. 
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận xã hội của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ quan điểm riêng của mình để làm bài. Trong đó, đặc biệt lưu ý đến việc thể hiện bố cục hoàn chỉnh của một bài văn nghị luận (có đủ mở bài, thân bài, kết bài; thân bài phải bao gồm nhiều đoạn văn), cách hành văn, chính xác và sinh động. Đồng thời phải đáp ứng đúng và đầy đủ yêu cầu về luận đề và nội dung.
- Thí sinh có thể triển khai vấn đề theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng; được tự do bày tỏ quan điểm của mình, nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và luật pháp.
Yêu cầu cụ thể
1. Giải thích ý kiến
Thí sinh cần giải thích thế nào là kỹ năng sống và việc tích lũy kiến thức. Kỹ năng sống là những kỹ năng cần thiết giúp con người sống và sống hội nhập được với xã hội. Chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nói trước đám đông, kỹ năng sinh tồn và vượt thoát trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng học tập có phương pháp, kỹ năng giải quyết khó khăn, kỹ năng đối phó với nguy hiểm, kỹ năng hòa hợp với thiên nhiên,... Từ đó xác định ý kiến được nêu trong đề có nội dung khẳng định vai trò quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống: cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
2. Bàn luận
Thí sinh có thể mở rộng sự bàn luận ra các hướng khác nhau; dưới đây là những ý tham khảo (không nhất thiết thí sinh phải làm giống những ý này):
- Để có thể hòa hợp với đời sống xã hội, con người cần phải tích lũy một số kiến thức căn bản từ gia đình, nhà trường, xã hội, sách vở, báo chí,...
- Có nhiều người bị vấp ngã một cách đau đớn vì thiếu kỹ năng sống. Đôi khi thiếu vài kỹ năng sống nào đó mà con người phải trả một giá khá đắt (ví dụ minh họa).
- Thiếu kỹ năng sống, người ta có thể hành động một cách sai trái, dại dột. Từ đó trở thành mối nguy hiểm cho xã hội (ví dụ minh họa: thiếu kỹ năng giải quyết những va chạm tình cờ gặp phải trong cuộc sống, chỉ từ một sự va chạm nhỏ trong giao thông, người ta có thể trở thành một kẻ sát nhân) .
- Có kỹ năng sống tốt, phù hợp với hoàn cảnh xã hội, người ta dễ đạt được sự thăng tiến. Có nhiều người kiến thức và học vị không cao nhưng có kỹ năng sống tốt đã đạt được nhiều thành công lớn trong cuộc sống (ví dụ minh họa)
- Cuộc sống phát triển, khoa học công nghệ ngày càng đổi mới. Nó đòi hỏi người làm việc phải có những cái kỹ năng mới như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng về ngoại ngữ, tin học, kỹ năng hội nhập với cộng đồng quốc tế, kỹ năng ứng xử với những mặt trái của mạng xã hội,... Ví dụ trường hợp một nữ sinh đã tự tử vì không biết cách ứng phó với hành vi xấu xúc phạm đến đời tư từ mạng xã hội.
- Khẳng định tính đúng đắn của luận đề: rèn luyện kỹ năng sống là một việc cần thiết không kém với việc tích lũy kiến thức, đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh.
3. Bài học nhận thức và hành động 
Từ những suy nghĩ và liên hệ của mình, thí sinh có thể rút ra những bài học khác nhau; dưới đây là những ý tham khảo:
- Kỹ năng sống không phải tự dưng mà có, nó đòi hỏi xã hội và bản thân phải có ý thức sâu sắc về sự quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống. Từ trong gia đình, ông bà cha mẹ, anh chị, ngay từ đầu phải có ý thức giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho con em của mình. Nhà trường nên đưa kỹ năng sống vào giờ học chính khóa và xem đó là một trong những mục tiêu giáo dục quan trọng, bên cạnh việc giáo dục kiến thức. Các tổ chức xã hội cũng nên cũng tạo điều kiện để mọi công dân được rèn luyện kỹ năng sống. Các cấp chính quyền cần xây dựng môi trường sống lành mạnh để góp phần tạo lập nếp sống phù hợp với chuẩn mực pháp luật và đạo đức nêu tấm gương tốt cho những người trẻ phấn đấu và hành xử.
- Bản thân từng người, nhất là học sinh, sinh viên cần phải thấy sự cần thiết và ích lợi của việc rèn luyện kỹ năng sống để từ đó bên cạnh việc trau dồi kiến thức có ý thức và nỗ lực rèn luyện kỹ năng sống.
- Nếu bên cạnh kiến thức tốt, tất cả mọi người đều có kỹ năng sống tốt thì đời sống xã hội sẽ trở nên tốt đẹp và đáng sống hơn.
Câu 2 (4.0 điểm) 
“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình: 
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rộng luộc chấm muối 
- Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
 - Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
 - Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi
 - Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
 - Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi
 - Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu Giá mà lão uống rượu thì tôi còn đỡ khổ. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão đưa tôi lên bờ mà đánh
 - Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên - Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông
 - Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát – trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn man rợ, tàn bạo? 
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú? Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
 - Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hành chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con, cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được. Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt sáng lên như một nụ cười – vả lại , ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
 - Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi 
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no 
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa –Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12,tập hai, NXB Giáo dục, 2015, tr. 75 – 76)
 Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
1.Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm:
-Vài nét về sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
-Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” và nhân vật người đàn bà hàng chài.
-Giới thiệu được cuộc trò chuyện.
2.Bình luận:
 a/ Tóm tắt tình huống truyện:
-Sau phát hiện về cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, Phùng đã kinh hoàng khi chiếc thuyền tới gần và phát hiện ra cảnh bạo lực đáng sợ trong gia đình người đàn bà hàng chài.
b/Giới thiệu vài nét về đoạn văn:
-Đoạn trích tái hiện lại cuộc trò chuyện giữa ba nhân vật: Phùng, chánh án Đẩu và người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện.
c/Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích:
 *Thân phận khốn cùng của người phụ nữ làm nghề chài lưới:
-Nỗi khổ vô hạn vì nghèo túng: đông con, thuyền chật
-Nỗi khổ cùng cực vì bị chồng hành hạ thường xuyên.
 *Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ làm nghề chài lưới:
 -Sự bao dung, độ lượng, vị tha
 -Tình mẫu tử tha thiết, thiêng liêng, cảm động
 -Sự thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
→ “cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”
d/Cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn: nhìn con người và cuộc sống toàn diện, trên nhiều phương diện.
Sau chiến tranh, cuộc sống của con người vẫn còn nhiều khó khăn, gian khổ, cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người
→ Đề ra một vấn đề trong xã hội: giải quyết triệt để, mang tính chất toàn xã hội đối với các bi kịch của cuộc sống con người.
3. Kết luận:
-Khái quát, đánh giá chung các giá trị về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích và truyện ngắn.

Tài liệu đính kèm:

  • docde_thi_TNQG.doc