Đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn khối 9

doc 39 trang Người đăng dothuong Lượt xem 887Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn khối 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn khối 9
Phần mở đầu
1. Lí do chọn chuyên đề
	Cách mạng tháng Tám là mốc lịch sử trọng đại mở ra một thời kì mới cho lịch sử dân tộc và cũng mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học. Trong suốt ba mươi năm (1945-1975) văn học Việt Nam đã nảy nở và phát triển gắn bó mật thiết với những bước đi của lịch sử dân tộc, với vận mệnh của Tổ quốc. Cuộc sống chiến đấu và lao động sản xuất được khắc hoạ một cách chân thật và đẹp đẽ qua văn học mà tiêu biểu là qua những vần thơ mượt mà đằm thắm có lúc khoẻ khoắn và hùng tráng đến kì lạ. Thơ ca thời kì này đã cất lên tiếng nói trữ tình mới mẻ, khoẻ khoắn có nhiều tìm tòi sáng tạo.
	Xuất phát từ điều đó, tôi thấy việc tìm hiểu tiếng nói trữ tình trong thơ 1945-1975 là một việc làm cần thiết giúp học sinh có một cái nhìn khái quát về giá trị của thơ ca Việt Nam 1945-1975 từ đó trau dồi thêm tình yêu quê hương, đất nước con người, bồi dưỡng tinh thần lạc quan cho thế hệ trẻ thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Phạm vi, đối tượng, mục đích của chuyên đề
	- Phạm vi: các văn bản quen thuộc đã học trong chương trình THCS như Lượm(Tố Hữu), Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)...
- Đối tượng: chuyên đề chủ yếu phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9, ngoài ra còn là tài liệu tham khảo để dạy học sinh đại trà
	- Mục đích: nâng cao kiến thức, bồi dưỡng, rèn luyện khả năng cảm thụ thơ văn, rèn năng lực khải quát, tổng hợp cho học sinh, đồng thời giúp giáo viên nâng cao kiến thức trình độ chuyên môn.
Phần nội dung
I. nội dung
 1. Cơ sở lí luận khoa học
	“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”(Sóng Hồng). Từ xưa đến nay, thơ có mặt ở mọi nơi trong cuộc sống, ở đâu có sự sống thì ở đó có chất liệu thi ca. Cuộc sống với tất cả sự bề bộn của nó là những nguồn đề tài vô tận cho thơ. Và sự có mặt của thơ ca chân chính trong đời sống góp phần chứng minh sự tồn tại của con người đang luôn thiết tha đấu tranh cho một lẽ sống, một chân lí tốt đẹp.
	Nhưng thơ còn là tiếng nói của tâm hồn, của niềm mơ ước. Thơ luôn bộc lộ khát vọng vươn tới một lý tưởng đẹp đẽ và cao thượng. Tiếng thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thôi thúc thầm kín nhưng vô cùng mãnh liệt của nội tâm. Thơ là tiếng lòng nhưng thơ cũng chính là cuộc sống. Tiếng thơ là sự thôi thúc yêu cầu của thời đại. Nhà thơ phải biết lắng nghe, quan sát, xúc động để bắt lấy tiếng nói sâu xa của cuộc sống để khơi dậy hoài bão và niềm tin tốt đẹp vào con người.
Văn học không chỉ phát triển theo qui luật nội tại của nó mà còn chịu sự chi phối của lịch sử và thời đại. Từ 1945 đến 1975 trên đất nước ta đã xảy ra nhiều biến cố tác động sâu sắc tới toàn bộ đời sống xã hội và con người. Trong suốt ba mươi năm ấy, cả dân tộc phải liên tiếp tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm lược để bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những biến cố to lớn ấy đã đưa tới những biến đổi sâu rộng trong lịch sử văn hoá mở ra thời kì mới cho nền văn học dân tộc. Không còn theo nhiều khuynh hướng, nhiều trào lưu khác nhau nữa mà tất cả các sáng tác văn học thời kì này đều hướng vào đời sống cách mạng, vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, thể hiện hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với những nhận thức mới mẻ, với những tình cảm mới và ý thức dân tộc.
Kế thừa những truyền thống và kinh nghiệm của các thời kì trước, văn học Việt Nam 1945- 1975 đã xứng đáng với sứ mệnh cao cả của một nền văn học trong thời đại mới. Văn học đã gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, với vận mệnh của đất nước đã sáng tạo nhiều hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam thuộc nhiều tầng lớp, thế hệ trong chiến đấu, lao động, sinh hoạt, trong mối quan hệ, gắn bó với cộng đồng. Về nội dung tư tưởng, văn học thời kì này đã phát huy những nét lớn trong trong truyền thống tinh thần dân tộc - cũng là nét nổi bật trong phẩm chất con người Việt Nam của thời đại ấy đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo.
Về mặt thể loại, văn học thời kì này cũng có những thành tựu đáng kể. Các thể loại phát triển khá toàn diện như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kí... trong đó thơ ca vẫn là nổi trội hơn cả. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, thơ đã đem đến cho người đọc một tiếng nói trữ tình mới mẻ, khoẻ khoắn - tiếng nói trữ tình của quần chúng nhân dân. Các nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật... đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo góp phần đổi mới thi ca Việt Nam.
 2. Đối tượng phục vụ quá trình nghiên cứu và xây dựng chuyên đề
	- Người dạy: giáo viên Ngữ văn THCS
	- Người học: học sinh giỏi và học sinh đại trà lớp 9
 3. Nội dung nghiên cứu
3.1. Ghi lại được những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kì lịch sử đầy gian lao, hi sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc.
Đã hàng nghìn năm lịch sử trôi qua tiếng thơ vẫn là tiếng nói tươi trẻ nhất của đời sống. Nhà phê bình văn học Nga V. Bi-ê-lin-xki đã viết: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Phục vụ cuộc sống, phục vụ con người là mục đích lớn nhất của thơ chân chính”. Chính những chi tiết chân thực, sống động của cuộc đời đã khơi dậy những tình cảm sâu sắc, mới mẻ cho các nhà thơ. Và cuộc chiến đấu gian lao của dân tộc ta trong suốt ba mươi năm ấy đã khơi nguồn sáng tạo cho thơ ca, đem đến cho văn học Việt Nam thời kì này những tác phẩm thơ giàu giá trị phản ánh hiện thực. Đó là những tác phẩm bám sát thực tế đời sống dân tộc, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực cuộc sống vĩ đại của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm trường kì là nguồn đề tài vô tận của thơ ca kháng chiến. Bám sát thực tế, thơ ca thời kì này đã phản ánh cuộc sống gian lao của dân tộc ta trong những ngày đầu kháng chiến. Các tác giả đã khai thác những chi tiết, hình ảnh tự nhiên, bình dị mà giàu sức biểu cảm của cuộc đời. Họ đã tìm thấy chất thơ ngay trong cái bình dị, bình thường, gắn văn học với hiện thực đời sống kháng chiến gian khổ của nhân dân:
“áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.”
 (Đồng chí – Chính Hữu)
Đoạn thơ thật đến từng chi tiết, hình ảnh đã tái hiện lại cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ. Thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men... người lính ra trận “áo vải chân không” rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”
Chỉ cần mấy câu ngắn gọn hình ảnh anh bộ đội thời chống Pháp hiện lên rõ nét và điển hình. Khó khăn, vất vả, thiếu thốn nhưng điều đó sẽ được giảm đi rất nhiều vì giữa họ có cái ấm áp của tình người. Cái tình ấy được bồi đắp từ cuộc sống “đồng cam cộng khổ”. Chỉ có nơi nào gian khó, chia chung “áo anh”, “quần tôi”, mới tìm thấy cái thực sự của tình người:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Không nói lời hoa mỹ, không lý lẽ, giải trình mà chỉ có tình yêu giữa những người đồng đội mới tạo nên sức mạnh vô địch mà kẻ thù phải khiếp sợ. Chính họ là những người đã trải qua:
Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi
Ngủ hầm
Mưa dầm
Cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.
 (Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy non sông, chấn động địa cầu, làm nên Vành hoa đỏ và thiên sử vàng cho dân tộc.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhưng một nửa đất nước vẫn còn chìm trong bóng đêm của chế độ Mĩ - Nguỵ. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, thơ ca đã theo kịp bước đi của lịch sử, ghi lại những trang sử hào hùng của cả dân tộc ta thời đánh Mĩ. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật viết năm 1969 nhưng hơn ba mươi năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những binh đoàn vận tải quân sự. Tác giả đã làm sống dậy một thời gian khổ oanh liệt của những anh bộ đội Cụ Hồ Trường Sơn. ở đó có cái dữ dội, khốc liệt của chiến tranh: chiếc xe vận tải mang đầy thương tích không mui, không đèn, thùng xe lại bị xước. Nhưng ở đó lại tồn tại những tiểu đội xe không kính như những gia đình nhỏ:
	Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Nhà thơ đã ghi lại chân thực nhịp sống thời chiến bằng những hình ảnh thật đặc sắc, điển hình. Bếp lửa như tín hiệu gọi nhau về xum họp, rồi võng mắc chông chênh chung bát đũa. Bữa cơm dã chiến chỉ có bát canh rau rừng, lương khô mà đoàng hoàng, đậm đà tình nghĩa. Trải qua mấy trăm cây số đường rừng mưa bom bão đạn, họ gặp nhau trong chốc lát, chỉ kip Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi để rồi lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của tiền phương “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. 
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Chỗ đặc sắc trong thơ Phạm Tiến Duật : lấy cuộc sống để để nói tình cảm. Cái đặc sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”. Quả thật, thơ của ông có giọng chắc khoẻ, đượm chất văn xuôi - một giọng thơ riêng biệt, mới mẻ trong nền thơ chống Mĩ. Những hình ảnh trần trụi, những từ ngữ thường ngày, những sự vật không nên thơ chút nào lại toả sáng trong thơ ông. Những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật vì xưa nay ít có hoặc ít thấy loại xe như thế đi lại trên đường. Thế mà trên tuyến đường Trường Sơn có hàng nghìn, hàng vạn chiếc xe như thế. Thật độc đáo, thật li kì. Đó chính là sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh được toát ra từ hình ảnh này. Trong bài thơ còn có những câu mang dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng thời trận mạc:
 - Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
 - Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
	Nhưng cũng có những câu thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
 Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
	Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe kết hợp hài hoà với cảm hứng trữ tình giàu chất sử thi đã tạo nên những vần thơ đầy ấn tượng. Đọc lại bài thơ dường như ta vẫn nghe trong gió rít, bụi mù và bom nổ tiếng cười nói râm ran, sôi nổi và trẻ trung của các anh lính lái xe. Đây là khúc tráng ca anh hùng của anh bộ đội Cụ Hồ thời đánh Mĩ.
	Nếu Bài thơ về tiểu đội xe không kính là khúc tráng ca anh hùng của người lính trên mặt trận chiến đấu thì bài thì bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là khúc tráng ca đẹp ca ngợi người lao động trên biển cả làm chủ lao động và Tổ quốc. Trước Cách mạng tháng Tám, người ta biết đến Huy Cận với một hồn thơ buồn vạn cổ sầu thấm đẫm vào vũ trụ và lòng người thì đến nay, thơ ông đã ngập sâu vào cuộc đời, hiện thân khoẻ khoắn nhất cho sự sống. Cuộc sống mới ùa vào thơ ông, mang lại cho ông một sinh khí chưa từng thấy. Đó là cuộc sống của miền Bắc nước ta trong những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ đã tìm thấy mối hoà điệu của người lao động với mạch sống đang từng ngày tươi da thắm thịt của đất nước. Một không khí vui tươi, phấn khởi của cuộc đời, của vùng than Quảng Ninh đang hăng say lao động từ bình minh đến hoàng hôn và từ hoàng hôn đến bình minh. Con người náo nức xây dựng cuộc sống mới, khí thế làm ăn thật tưng bừng, đoàn thuyền hùng dũng ra khơi lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
	Dường như thiên nhiên cũng hoà vào không khí lao động khẩn trương của đoàn thuyền. Thiên nhiên như mở ra bát ngát, mênh mông. Cả vũ trụ từ trăng, gió, mây đến biển đều quây quần xung quanh đoàn thuyền và con người, nâng tầm vóc con người lên tầm vóc vũ trụ. Công việc của họ được miêu tả như một trận đánh. Người dân chài bước vào lao động bình thường như bước vào những trận chiến đấu với vũ khí là những tấm lưới, với sức khoẻ của cơ bắp và với tâm thế của người đang nắm chắc phần thắng:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
	Lao động thực sự là niềm vui của cuộc đời mới, con người mới. Bằng lao động và mồ hôi, họ - những người dân chài - đã viết nên bài ca cuộc đời trong một đêm lao động hào hứng, hăng say. Và bản hoà tấu của con người với vũ trụ đã biến đêm thành hội hoa đăng cho tới khi trời bừng sáng. Đoàn thuyền đánh cá hát khúc ca khải hoàn:
	Câu hát giăng buồm với gió khơi
	Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
	Mặt trời đội biển nhô màu mới
	Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.
	Nhà thơ Huy Cận khi nói về tác phẩm của mình đã nhận định: “Bài thơ của tôi là một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trong lao động và tinh thần làm chủ với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn”. Với một tình yêu biển dạt dào, với một cảm hứng say mê phấn chấn và những nét vẽ tài hoa, Huy Cận đã sáng tạo những hình ảnh thơ hùng tráng về con người lao động và cuộc sống mới của đất nước trong thời kỳ mới bước vào xây dựng XHCN trên miền Bắc nước ta.
	Sáng tác văn học là hoạt động nhằm “hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội” (Phạm Văn Đồng). Hiện thực đất nước 1945-1975 khơi nguồn sáng tạo và là đối tượng phản ánh chủ yếu của nhiều tác phẩm văn chương. Đó là cơ sở tạo nên giá trị hiện thực cho văn học. Nhưng hiện thực trong thơ không hoàn toàn khô khốc, trần trụi. Đời sống hiện thực bộc lộ nhiều vẻ đẹp, gợi lên những niềm vui và mơ ước đã làm nảy sinh cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn nhất là chất trữ tình cách mạng là một thành tố quan trọng của thi ca, làm nên nét nổi bật của thi ca thời kì này, đó là sự kết hợp hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn.
 3.2 Tiếng nói ngợi ca phẩm chất của con người Việt Nam
	Lịch sử văn học dân tộc xét đến cùng là lịch sử tâm hồn của dân tộc ấy. Lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc là nét nổi bật trong tâm hồn người Việt Nam. Nhưng ở người Việt Nam, yêu nước gắn liền với nhân đạo, nhân văn cao cả. Điều này sẽ cắt nghĩa được vì sao một dân tộc luôn phải cầm gươm, cầm súng suốt mấy nghìn năm mà thơ văn lại nói nhiều đến nhân nghĩa, đến tình yêu, đến thân phận con người trong xã hội. Yêu nước và nhân đạo trở thành truyền thống lớn của con người Việt Nam, văn học Việt Nam, là huyết mạch thần kinh nhạy bén nhất của con người Việt Nam qua suốt trường kỳ lịch sử.
	Tiếp thu truyền thống ấy, văn học Việt Nam thời kì 1945-1975 nói chung, thơ ca nói riêng đã phát huy nét lớn trong tư tưởng của dân tộc - cũng là những nét nổi bật trong phẩm chất của con người Việt Nam thời kì ấy, đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, thơ ca đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu truyền thống dân tộc, vừa đậm nét thời đại.
	3.2.1. Lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc
	Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: “Dân tộc ta, dân tộc anh hùng”. Văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chứa chan tình cảm yêu nước và cao hơn không chỉ là yêu nước mà là chủ nghĩa anh hùng của thời đại. Cuộc chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ đã tạo nên trên đất nước này một chủ nghĩa anh hùng phổ biến trong toàn dân. ấy là thời kì “ra ngõ gặp anh hùng”. Thơ ca Việt Nam thời kì này đã miêu tả được nhiều giá trị cao đẹp về nhân dân với lòng yêu nước thiết tha, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Hình ảnh nhân dân kháng chiến được miêu tả đậm nét và gợi cảm. Từ người Vệ quốc quân “má vàng nghệ” đến những anh giải phóng quân hiên ngang bất khuất; từ những bà bủ, bà bầm đến những bà mẹ con mọn vừa địu con vừa giã gạo, trỉa bắp, chuyển lán đạp rừng; từ những em bé má đỏ bồ quân đến những cụ già tóc bạc ... cũng muốn lập chiến công. Cả nước thành chiến sỹ trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. 
	Nhưng có lẽ đẹp hơn cả là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ. Đây được xem như nhân vật trung tâm, thể hiện khá tập trung những đặc điểm của con người mới trong chiến đấu. Trong thơ ca, họ không phải là anh lính thời xưa “áo đỏ đuôi gà”,” chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa” mà là anh lính thật thà, chân thật nhưng dũng cảm, kiên cường. Đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ta thấy hiện lên hình ảnh chân thực mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Họ là những người nông dân nghèo khổ từ “tứ xứ ” nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà tạm xa quê hương lên đường chiến đấu. Họ mặc kệ quê nhà, gia đình, người thân và cả những gì rất đỗi thân thuộc. ở chiến trường họ cùng chung mục đích, cùng chung lí tưởng chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc; cùng chia sẻ gian lao thiếu thốn của cuộc sống quân ngũ để “súng bên súng, đầu sát bên đầu...” trở thành tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí đồng đội kề vai sát cánh bên nhau:
	Đêm nay rừng hoang sương muối
	Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
	Đầu súng trăng treo 
	Rừng hoang sương muối không chỉ là một hiện thực mà cao hơn đó là điều kiện thiên nhiên thử thách người lính. Trước hiện thực khốc liệt ấy họ vẫn đứng vững vàng với cây súng trong tay sẵn sàng chờ giặc tới. Đây là hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do hạnh phúc cho dân tộc. Với cây súng trong tay, các anh trở thành linh hồn của đất nước. Chính Hữu đã tạc bức tượng đài về người chiến sỹ cách mạng từ tình đồng chí. Từ những người lính nông dân nghèo khổ “áo vải chân không” được tình cảm cách mạng cao đẹp nâng bước họ mang trong mình dáng hình mới - dáng đứng Việt Nam ở thế kỉ XX anh dũng, hiên ngang, bất khuất, kiên cường. Sự sáng tạo của Chính Hữu là ở chỗ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của thơ văn yêu nước thời kỳ trước để làm mới, làm đẹp cho hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
	Vẫn là những anh lính Việt Nam nhưng đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật lại có một thái độ, tư thế, tình cảm, khí phách mới mang tính hiện đại của những con người không phải chờ giặc mà là “tìm giặc” để đánh “nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Thế hệ các anh là thế hệ của những Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm đã có thời mộng mơ, sôi nổi trên ghế nhà trường nay hăm hở ra đi chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước với một lòng yêu nước rực lửa: “Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước”. Con đường Trường Sơn được coi là một con đường huyền thoại trong cuốn sử vàng đánh Mĩ. Hàng triệu tấn bom của giặc Mĩ dội xuống làm biến dạng chiếc xe quân sự: không kính, không đèn, không mui. Nhưng người lính vẫn dũng cảm, can trường trong tư thế:
	Ung dung buồng lái ta ngồi
	Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
	Một tư thế ung dung tới mức ngang tàng của ngươiù lính lái xe. Một sự tự tin, niềm kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình - sứ mệnh giải phóng đất nước:
	Xe vẫn chạy vì miền Nam ruột thịt
	Chỉ cần trong xe có một trái tim
	Hình ảnh hoán dụ “trái tim” là biểu tượng của ý chí, của bản thân, của bầu nhiệt huyết, của khát vọng tự do, hoà bình cháy bỏng trong trái tim người chiến sĩ. Cho dù xe không kính, không đèn, không mui thì người lính vẫn còn một trái tim yêu nước, một lòng khát khao giải phóng miền Nam cháy bỏng. Phạm Tiến Duật mang theo cái nhìn của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng, của những người lính trường Sơn đã tạo dựng bức tượng đài người lính với nét ngang tàng, dũng cảm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
	Thơ ca Việt Nam 1945 – 1975 đẫ dựng được những đài kỉ niệm kì vĩ, ghi lại ngững chiến công về lòng yêu nước của con người Việt Nam anh hùng. Vì độc lập tự do của dân tộc, biết bao thế hệ con người Việt Nam đã ngã xuống tô thắm thêm lá cờ đào của Tổ quốc, trong đó có cả những em bé “tuổi nhỏ chí cao”. Đọc thơ ca chống Pháp, người đọc mãi khắc sâu hình ảnh một chú đội viên nhỏ bé, nhanh nhẹn, hồn nhiên và vô cùng dũng cảm trong thơ Tố Hữu:	
Cháu bé loắt choắt 
	Cái xắc xinh xinh
	Cái chân thoăn thoắt
	Cái đầu nghênh nghênh
	Đó là chú bé Lượm đáng yêu. Nhưng đáng yêu, đáng khâm phục hơn là ý chí quả cảm của người chiến 

Tài liệu đính kèm:

  • docHSG9.doc