Đề tài Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam

pdf 56 trang Người đăng TRANG HA Lượt xem 1258Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của
người gây thiệt hại (về tài sản, sức khỏe..) cho bản thân mình là một quyền
được áp dụng có tần suất lớn nhất trong các quyền về yêu cầu bồi thường thiệt
hại quy định bởi luật dân sự tại xã hội hiện đại. Tại Nhật, số vụ yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại do hành vi sai trái (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số vụ việc tranh chấp dân sự. Con số này
nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai
trái trong đời sống dân sự.
Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật Dân sự Việt Nam Ông John
Gillespie giáo sư thỉnh giảng của Trường Đại học Luật Deakin - một trong
những trường Đại học Luật danh tiếng của Úc đã nhận định rằng: “Người dân
Việt Nam không biết đến quyền yêu cầu nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ bồi
thường thiệt hại cho mình do hành vi sai trái của nhà sản xuất nói riêng và quyền
yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của người đó nói
chung”(1).
Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy đã
được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số văn bản
pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong
trách nhiệm BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người
thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan
giải khi tiếp cận.
.Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: “Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm khoá luận tốt
nghiệp.
(1) Theo bài: Quyền của cá nhân trong thương mại (dân sự) ở Việt Nam: Phân tích dưới phương pháp so sánh)
đăng trên tạp chí Pháp luật quốc tế Đại học Stanford (Stanford Journal of International Law) số 30 năm 1994 (30 Stan. J Int’l
L. 325) tại các trang 347, 348 và 349
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp ở nước ta đã xuất hiện
khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm BTTHNHĐ,
như “những vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTHNHĐ trong Bộ luật dân sự” của
Tiến sỹ Lê Mai Anh Tuy nhiên, đối với vấn đề về “Năng lực chủ thể của cá
nhân trong BTTHNHĐ” theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì còn
khá khiêm tốn trong vấn đề nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học thực tiễn.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà cụ
thể là “năng lực BTTHNHĐ của cá nhân” mà không đi vào nghiên cứu trách
nhiệm bồi thường theo hợp đồng và năng lực BTTHNHĐ của các chủ thể khác.
Đề tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về năng lực bồi
thường thiệt hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó đưa ra
những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan điểm
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình
nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp chứng
minh.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo Bộ luật dân sự
Việt Nam 2005
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
3
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ NGOÀI HỢP ĐỒNG
1.1.Khái niệm và các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng
1.1.1.Khái niệm trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Xã hội luôn luôn là tổng hoà của các mối quan hệ đa dạng và phức tạp và
cần đến sự điều chỉnh của pháp luật. Chính từ sự đa dạng và phức tạp của các
quan hệ xã hội nên yêu cầu pháp luật cũng cần có một cơ chế điều chỉnh đa dạng
và phù hợp, xuất phát từ đây mà nhiều quan hệ pháp luật đã ra đời trong đó có
quan hệ về nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ này khi chủ thể tham gia không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết kể cả thực hiện không
đúng nghĩa vụ do pháp luật quy định thì phải gánh chịu về mình những hậu quả
bất lợi. Hậu quả bất lợi này thể hiện thông qua việc giải quyết “trách nhiệm dân
sự” giữa người có quyền với người có nghĩa vụ và được thực hiện theo nguyên
tắc bên có hành vi vi phạm và gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường. Theo T¹p chÝ
d©n chñ vµ ph¸p luËt cña Bé T­ ph¸p, sè chuyªn ®Ò vÒ Bé luËt d©n sù ViÖt Nam
2005, t¹i phÇn thuËt ng÷ ph¸p luËt d©n sù cã ®­a ra kh¸i niÖm vÒ tr¸ch nhiÖm
d©n sù nh­ sau: “Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính
cưỡng chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền
dân sự bị vi phạm. Tr¸ch nhiÖm d©n sù (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp cưỡng
chế áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho
người khác, người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu
quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình”.[tr. 249]
Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi, họ phải chịu trách nhiệm dân sự là do chính những hành vi sai trái
của mình. Hành vi của các chủ thể có thể là vi phạm hợp đồng (không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết) hoặc do hành vi vi
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
4
phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chia thành hai loại đó là
trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Thực tiễn đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất nhiều các thiệt hại
về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, tài sản, danh
dự, uy tín của tổ chức. Nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại này rất đa dạng, có
thể là do tác động của các yếu tự nhiên bên ngoài, tác động bởi hoàn cảnh khách
quan hay hành vi của con ngườitrong đó phần lớn là do các hành vi trái pháp
luật của con người mang lại. Trước những hành vi xâm phạm tới các quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ cho nên nhà nước
cần đề ra những biện pháp để ngăn chặn và khắc phục hậu quả. Điều 71 Hiến
pháp 1992 của nước ta ghi nhận: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm”. Thể
chế hoá các quy định về vấn đề này của Hiến pháp BLDS Việt Nam 2005 tại
Điều 604 đã quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều này có nghĩa là một người
nào đó gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khi một người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan hệ bồi
thường thiệt hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này
phát sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên
không có mối quan hệ hợp đồng hoặc nếu có, thì vi phạm này không phải là vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ
hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi vi phạm của người gây
thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã ký kết.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
5
Như vậy, về cơ bản thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
phát sinh không phải từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng không thể khẳng định
một cách cứng nhắc rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ
phát sinh không phải từ hợp đồng. Nếu khẳng định như vậy thì sai lầm, phiến
diện và thiếu căn cứ, bởi lẽ ta không thể loại bỏ được khả năng nghĩa vụ dân sự
ngoài hợp đồng phát sinh xuất phát từ quan hệ hợp đồng giữa các bên chủ thể.
Ngoài ra, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn xuất hiện trong rất
nhiều trường hợp khác nhau. Ví dụ như quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, việc thực hiện công việc không có uỷ quyền, ngay cả hợp đồng dân
sự vô hiệu hay hành vi pháp lý đơn phương cũng có thể trở thành nguyên nhân
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và còn rất nhiều các trường
hợp khác nữa.
Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó
không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của
người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết giữa
các bên.
1.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật nghiêm cấm các hành vi gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,
sức khoẻ cho công dân một cách bất hợp pháp. Các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân luôn được Nhà nước bảo hộ. Điều 74 Hiến pháp1992 của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời
xử lý nghiêm minh”. Pháp luật quy định những biện pháp buộc người có hành
vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm trước những hậu quả
mà mình gây ra cho người khác, đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều
604 BLDS 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
6
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Như vậy, trách nhiệm bồi
thường chính là hậu quả bất lợi về tài sản mà người có hành vi xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác phải gánh chịu.
Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì việc quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do gây thiệt hại cho người khác không thể xác định một cách tuỳ tiện và
thiếu căc cứ. Pháp luật dân sự quy định việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt
hại căn cứ vào các điều kiện nhất định. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là những yếu tố tạo nên cơ sở cho việc
xác định trách nhiệm bồi thường. Các điều kiện này phải được xem xét trong
mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy đủ.
Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy
định cụ thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Tuy nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao số 01/2004 NQ/- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
thì có bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, (3)
có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và
hành vi trái pháp luật.
*Có thiệt hại xảy ra
Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại những
tổn thất cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi
thường sẽ không được đặt ra kể cả trong trường hợp các điều kiện khác đã đáp
ứng đầy đủ. Từ đây có thể thấy thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc phải có
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để quyết định xem có phát
sinh trách nhiệm bồi thường hay không.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
7
“Thiệt hại” theo luật dân sự Việt Nam là những tổn thất thực tế được tính
thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản
của tổ chức, cá nhân, tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm sút, mất mát về lợi
ích vật chất, tinh thần hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Như vậy, xét từ bất kỳ góc độ nào
thì hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại cũng đều xâm phạm đến các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ, cho nên, những quy định về bồi thường thiệt hại
của pháp luật dân sự đưa ra là hợp lý để kịp thời ngăn chặn những hành vi gây
thiệt hại và buộc những người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại phải có trách
nhiệm bồi thường. Người đã gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường
những tổn thất mà mình gây ra là hoàn toàn đích đáng nhưng để có một quyết
định giải quyết về mức bồi thường thiệt hại thật chính xác và hợp tình, hợp lý thì
người có trách nhiệm giải quyết cần quan tâm đến tính chất của những thiệt hại
đã xảy ra. Bởi lẽ, khi có thiệt hại xảy ra thì thiệt hại này có thể dễ dàng tính toán,
quy đổi thành tiền nếu đó đơn thuần là những thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên
thiệt hại xảy ra có thể là về tinh thần, tính mạng, sức khỏe của con người. Bản
chất của hai loại thiệt hại nay mang những đặc điểm riêng biệt, do vậy việc phân
chia và nghiên cứu rõ hai loại thiệt hại này sẽ giúp cho việc xác định bồi thường
thiệt hại tiến hành được chính xác hơn, thuận tiện hơn.
- Thứ nhất là thiệt hại về vật chất
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể
tính toán, định lượng ra tiền được. Theo thông tư 173 UBTP/TANDTC ngày
23/3/1997 thì thiệt hại về vật chất (tài sản) là sự mất mát, giảm sút về một lợi ích
vật chất có thể tính toán được bằng tiền, bao gồm các khoản: Những hư hỏng,
mất mát về tài sản, những chi phí bỏ ra để sửa chữa và những thu nhập bị mất do
bị thiệt hại.
Ghi nhận sự thiệt hại về vật chất (tài sản) BLDS 2005 đã quy định rõ
thiệt được bồi thường do tài sản bị xâm phạm. Theo lôgic thì thiệt được bồi
thường cũng chính là thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, bao gồm:
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
8
1. Tài sản bị mất;
2. Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;
4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
Và các thiệt hại trên muốn được bồi thường thì phải thoả mãn một số điều kiện:
sự thiệt hại phải chắc chắn, thực tế và chưa được bồi thường.
Thiệt hại phải chắc chắn nghĩa là người bị thiệt hại phải đưa ra được
những thiệt mà mình phải gánh chịu và những thiệt hại đó có thể tính toán được.
Thiệt hại đó phải thực tế tuy nhiên tính thực tế của thiệt hại được biểu hiện
không nhất thiết phải là thiệt hại đã xảy ra bởi lẽ một thiệt hại trong tương lai
(thiệt hại gián tiếp) cũng được coi là có tính thực tế nếu chắc chắn rằng nó sẽ
xảy ra và có thể ước lượng trước được. Do vậy mà hậu quả tương lai của một
thiệt hại thực tế cũng có thể được xem xét để định ra mức bồi thường. Đương
nhiên một thiệt hại không chắc chắn và chỉ mang tính giả định thì không thể
được xem xét để bồi thường.
Qua những phân tích trên cho thấy khi tính toán đến thiệt hại nhà làm luật
không chỉ tính đến những thiệt hại trực tiếp xảy ra mà còn tính đến cả những
thiệt hại gián tiếp. Nhưng khi tính đến những thiệt hại gián tiếp cần phải xem xét
thật kỹ mối quan hệ giữa thiệt hại gián tiếp với những thiệt hại trực tiếp đã xảy
ra.
Liên quan đến việc xác định bồi thường thiệt hại thì việc thiệt hại đã được
đền bù chưa cũng là một vấn đề phức tạp để. Hiển nhiên nếu một thiệt hại đã
được bồi thường rồi thì người bị thiệt hại không thể khởi kiện để đòi bồi thường
một lần nữa. Song trên thực tế để xác định xem một thiệt hại đã được bồi thường
chưa không đơn giản chút nào. Vấn đề được đặt ra trong trường hợp bảo hiểm.
BLDS Việt Nam quy định về quan hệ bảo hiểm gồm có ba loại gồm có
bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản.
Đối với quan hệ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nếu nạn nhân - người bị
thiệt hại đã được công ty bảo hiểm bồi thường thì không thể kiện người gây ra
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
9
thiệt hại để đòi bồi thường thêm một lần nữa vì khi công ty bảo hiểm bồi thường
cho nạn nhân là họ đã đại diện cho người gây ra thiệt hại. Vấn đề sẽ trở nên
phức tạp hơn trong trường hợp bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản.
Khi có thiệt hại xảy ra người đựơc bảo hiểm đã được công ty bảo hiềm
bồi thường rồi thì có được tiếp tục yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi thường nữa
không? Và số tiền mà công ty bảo hiểm đã chi trả cho người được bảo hiểm có
phải là một khoản bồi thường thiệt hại hay không?
Số tiền mà công ty đã chi ra cho người bị thiệt hại thì công ty có quyền
đòi người gây ra thiệt hại phải thanh toán cho mình số tiền đó không? Điều này
đã được giải quyết theo Điều 577 của BLDS 2005 về chuyển yêu cầu hoàn trả:
“Trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được bảo hiểm và
bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ
ba hoàn trả khoản tiền mình đã trả”. Cũng theo quy định của điều luật này thì
người được bảo hiểm có quyền yêu cầu bồi thường thêm khoản chênh lệch mà
người bảo hiểm hoặc người gây thiệt hại bồi thường.
- Thứ hai là thiệt hại về tinh thần
Không có một khái niệm nào đựơc đưa ra giải thích thế nào là “thiệt hại về
tinh thần” chúng ta chỉ có thể hiểu một cách khái quát thiệt hại tinh thần là sự
xâm phạm vào các giá trị tinh thần, tình cảm như là sự mất danh dự, tạo nên
những đau thương Pháp luật dân sự không có một quy định nào cụ thể về vấn
đề này, khoản 3 Điều 307 quy định một cách khái quát: “Người gây thiệt hại
tính thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho người bị hại”.
Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là vấn đề
nhạy cảm và phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi
vật chất không thể cân, đo, đong, đếm được, cũng không có một công thức
chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp. Suy cho đến cùng những bù
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
10
đắp về tình thần chỉ mang tính chất an ủi, động viên đến người bị thiệt hại mà
thôi. Có thể nói đây là một vấn đề khó, cho đến nay về cơ bản các nhà làm luật
vẫn chưa ban hành được văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Nói về thiệt
hại tính thần có hai quan điểm khác nhau về vấn đề bồi thường: quan điểm thứ
nhất cho rằng thiệt hại về tinh thần là thiệt hại không thể bù đắp được vì thiệt hại
về tinh thần như mất đi người thân, tình cảm bị xúc phạm những tổn thất này
đều vô giá không thể quy đổi ra thành tiền được, quan điểm thứ hai lại cho rằng
thiệt hại dù là vật chất hay tinh thần đều phải bồi thường vì những thiệt hại tính
cho đến cùng thì cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi. Ngay cả thiệt hại về vật
chất nói là có thể tính ra thành tiền được nhưng mọi sự đền bù cũng chỉ mang
tính khắc phục, sửa chữa làm sao có thể để nó trở lại nguyên gốc của trạng thái
ban đầu như trước khi chưa bị thiệt hại. Mỗi một quan điểm đều có cách luận
giải riêng của mình nhưng giả sử ta cho rằng quan điểm thứ nhất là hợp lý thì
chẳng lẽ người bị gây hại phải đương nhiên gánh chịu những tổn thất do người
khác gây ra cho mình hay sao? Như vậy phải chăng là quá thiệt thòi cho người
bị gây hại, mà người có lỗi thì lại không phải gánh vác một trách nhiệm gì cả.
Theo quan điểm hai sẽ hợp lý hơn, dù rằng những thiệt hại về tinh thần tuy là
khó có thể tính toán được nhưng xét trên một phương diện nào đó thì việc được
đền bù phần nào sẽ an ủi người bị hại và cũng là cơ hội cho người gây ra thiệt
hại chuộc lỗi. Mặt khác nếu xem xét một cách khoa học thì bên cạnh sự biểu
hiện vô hình của những thiệt hại về tinh thần làm cho mọi tính toán thiệt hại trở
nên khó khăn vẫn còn một số că

Tài liệu đính kèm:

  • pdfXIN_CHUYEN_QUA_WORD_DUM_RAT_CAM_ON.pdf