Chuyên đề Tìm hiểu một số tài nguyên du lịch nổi tiếng Việt Nam

doc 28 trang Người đăng TRANG HA Lượt xem 1318Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tìm hiểu một số tài nguyên du lịch nổi tiếng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề Tìm hiểu một số tài nguyên du lịch nổi tiếng Việt Nam
Chuyên đề:
TÌM HIỂU MỘT SỐ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
NỔI TIẾNG VIỆT NAM
***
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lí do chọn chuyên đề:
Cơ sở lí luận:
Trong chương trình THCS môn Địa lí, học sinh được cung cấp kiến thức phổ thông, cơ bản về địa lí tự nhiên, môi trường sống của chúng ta, biết thành phần nhân văn của môi trường, các môi trường địa lí, thiên nhiên và con người ở các châu lục và có các kỹ năng địa lí cần thiết như: đọc và khai thác thông tin từ một đoạn văn, một biểu đồ, một hình vẽ hay ảnh Địa lí, một bản đồ, sơ đồ... Đặc biệt các em được học về Địa lí Việt Nam, có nhứng hiểu biết về thiên nhiên, con người Việt Nam, các tài nguyên thiên nhiên Việt Nam rất phong phú và đa dạng, đó là những điều kiện thuân lợi để giúp cho nước ta phát triển kinh tế - xã hội, trong đó không thể không kể đến tài nguyên du lịch. Nước ta có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn rất phong phú và đa dạng, nhiều loại tài nguyên du lịch đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên, di sản văn hoá của thế giới, đó là niềm tự hào lớn của cả dân tộc Việt Nam, là điều kiện tốt để nước ta quảng bá cho du khách trong nước, các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta phát triển và hội nhập.
Cơ sở thực tiễn:
Mỗi học sinh cần có những hiểu biết về đất nước – đất liền và hải đảo, vùng biển và vùng trời, từ đó giúp các em thêm yêu quê hương, đất nước, có ý thức giữ gìn và bảo vệ các giá trị thiên nhiên, văn hoá, lịch sử của địa phương, đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên mà tôi chọn chuyên đề: “Tìm hiểu một số tài nguyên du lịch nổi tiếng Việt Nam” để giúp các em hiểu cụ thể hơn nữa về tiềm năng du lịch của nước ta.
Mục đích nghiên cứu:
Học sinh có những hiểu biết cụ thể, chi tiết về một số tài nguyên du lịch nổi tiếng của đất nước mình, tự hào về quê hương, đất nước và con người Việt Nam, biết giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị của tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới.
Học sinh có thêm những kỹ năng thu thập thông tin qua các tài liệu, tranh ảnh, video clip...
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trước xu thế chung của đất nước, khu vực và thế giới, vai trò của ngành du lịch trong cơ cấu kinh tế, ngành du lịch ngày càng khẳng định ưu thế của mình, đem lại nguồn thu nhập lớn, góp phần mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước trên thế giới và cải thiện đời sống nhân dân.
Thu thập các thông tin, hình ảnh về các tài nguyên du lịch nổi tiếng của Việt Nam để cung cấp cho học sinh.
Rèn cho các em kỹ năng tự học, tự tìm hiểu về quê hương đất nước qua thực tế của cuộc sống, qua các kênh thông tin.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
- Các thông tin về một số tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
- Các hình ảnh, video clip về một số địa điểm du lịch nổi tiếng
Phạm vi nghiên cứu:
- Các thông tin về tài nguyên du lịch tự nhiên trong chương trình Địa lí lớp 8.
- Các thông tin về tài nguyên du lịch nhân văn trong chương trình Địa lí lớp 9.
Phương pháp nghiên cứu:
- Giáo viên đọc các tài liệu trong chương trình Địa lí lớp 8, 9 về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam.
- Giáo viên tìm hiểu ở các thông tin trên báo chí, mạng Internet, các tài liệu tham khảo về nội dung nghiên cứu.
- Học sinh tự tìm hiểu rồi trình bày.
Cấu trúc của chuyên đề:
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Nội dung
A. Kiến thức cơ bản.
B. Câu hỏi và bài tập
Phần III: Kết kuận và kiến nghị
***
PHẦN II: NỘI DUNG
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 I. Tài nguyên du lịch tự nhiên
 Nước ta có tài nguyên du lịch tự nhiên rất phong phú và đa dạng như: địa hình, khí hậu, nước, sinh vật...
1. Về địa hình:
 	Nước ta có nhiều dạng địa hình: đồi núi, đồng bằng, đất liền, hải đảo tạo nên nhiều cảnh quan đẹp, hấp dẫn du khách, đáng chú ý nhất là địa hình Cac-xtơ với nhiều hang động nổi tiếng có khả năng khai thác du lịch. Nổi bật nhất là vịnh Hạ Long (di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận năm 1994)
	Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vinh Bắc Bộ trên khu vực biển đông bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo thuộc thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả và một phần của huyện đâỏ Vân Đồn của tỉnh Quảng Ninh, diện tích 1550 km2, độ cao 100m.
Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến xanh, vịnh Hạ Long có 1969 đảo lớn nhỏ. Quá trình Cac-xtơ bào mòn, phong hoá gần như hoàn toàn tạo ra vịnh Hạ Long độc nhất vô nhị với hơn 1000 đảo đá với nhiều hình thái, dáng vẻ khác nhau lô nhô trên mặt biển trong một diện tích không lớn của vùng vịnh.
Vịnh Hạ Long
	Các đảo trên vinh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào, đảo thì giống khuôn mặt ai đó đang hướng về đất liền (hòn Đầu người), đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước (hòn Rồng), đảo giông như ông lão đang ngồi câu cá (hòn Lã Vọng), phía xa là hai cánh buồm nâu đang rẽ song ra khơi (hòn Cánh buồm), đảo lại lúp xúp như mâm xôi cúng (hòn Mâm xôi), rồi hai con gà đang âu yếm hôn nhau trên sóng nước (hòn Trống mái) ...
	Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng là các đảo đặt tên theo các tích dân gian (núi Bài Thơ, đảo Tuần Châu...), hoặc căn cứ vào các đặc sản có trên đảo, vùng biển bao quanh (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ...)
* Một số đảo nổi tiếng:
 + Hòn Gà Chọi (hòn Trống mái): là một trong những đảo nổi tiếng trên vịnh Hạ Long, hòn Gà chọi nằm ở phía Tây Nam của vịnh, cách cảng du lịch Bãi Cháy khoảng 5 km. Đây là cụm gồm hai đảo có hình thù giống một đôi gà, một trống, một mái, có chiều cao khoảng hơn 10m với chân thắt lại ở tư thế chênh vênh, là biểu tượng trên lô gô của vịnh Hạ Long, hòn Gà chọi cũng là biểu tượng trong sách hướng dẫn du lịch Việt Nam.
Hòn Gà chọi (hòn Trống mái)
 + Đảo Tuần Châu: 
Cách cảng du lịch Bãi Cháy khoảng 4 km về phía Tây Nam, trên vùng vịnh Hạ Long, đảo Tuần Châu là một đảo rất rộng khoảng 3km2, gần bờ, có làng mạc và dân cư thưa thớt. Trước kia các nhà khoa học đã tìm được nhiều di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hoá Hạ Long. Từ năm 2001, một con đường lớn được xây dựng nối đảo với đất liền, một tổ hợp dịch vụ vui chơi giải trí, quần thể khách sạn, nhà hàng, sang trọng được xây dựng, đưa vào phục vụ làm thay đổi bộ mặt của vịnh Hạ Long từ năm du lịch 2003 đến nay.
 + Hang động: Hang Sửng Sốt
Hang Sửng Sốt nằm trên đảo Bồ Hòn ở trung tâm vịnh Hạ Long, đây là hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long, là trung tâm du lịch của vịnh với hệ thống trong tuyến du lịch bao gồm bãi tắm Ti tốp – hang Bồ Nâu – động Thiên Cung – hang Sửng Sốt.
	Đường lên hang Sửng Sốt quanh co uốn lượn dưới những tán lá rừng, với những bậc đá ghép cheo leo, khúc khuỷu. Động được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn thứ nhất như một nhà hát lớn rộng thênh thang với trần hang được phủ bằng nhũ đá, những tượng đá, voi đá, hải cấu, mâm xôi, hoa lá ... mở ra một thế giới cổ tích; ngăn thứ hai cách biệt với ngăn thứ nhất bởi một lối đi hẹp, bước vào lòng ngăn này mở ra một khung cảnh mới khác lạ hoàn toàn với lòng hang rộng có thể chứa hàng nghìn người, có những hình tượng được gắn với truyền thuyết Thánh Gióng, cạnh lối ra vào là khối đá hình chú ngựa, thanh gươm dài và trong lòng hang là những ao hồ nhỏ như vết chân ngựa Gióng. 
Nước ta có khoảng 120 bãi biển lớn nhỏ có điều kiện khai thác du lịch, điển kình là Trà Cổ (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Thuận An, Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Vân Phong, Nha Trang (Khánh Hoà), Cà Ná (Ninh Thuận), Mũi Né (Bình Thuận), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)...
Nha Trang (Khánh Hoà)
Nha Trang là một thành phố ven biển, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật và du lịch của tỉnh Khánh Hoà, Việt Nam. Nha Trang được thủ tướng chính phủ công nhận là đô thị loại 1 vào ngày 22/4/2009, đây là một trong các đô thị loại 1 thuộc tỉnh của Việt Nam. Nha Trang được gọi là hòn ngọc biển Đông, viên ngọc xanh về giá trị thiên nhiên, vẻ đẹp cũng như khí hậu của nó.
Nước ta có nhiều đảo ven bờ, trong đó có một số đảo có giá trị du lịch như: Phú Quốc, Cát Bà, Côn Đảo...
 Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu) 	 Cát Bà (Hải Phòng)
	2. Về khí hậu: 
Khí hậu nước ta thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Sự phân hoá khí hậu theo mùa, theo độ cao và vĩ độ tạo nên sự đa dạng khí hậu. 
	3. Tài nguyên nước:
- Hệ thống sông hồ, kênh rạch ở đồng bằng sông Cửu Long tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch sông nước, miệt vườn. Một số hồ tự nhiên (Ba Bể, Thang Hen...), hồ nhân tạo (Hoà Bình, Thác Bà, Trị An, Dầu Tiếng...) đã trở thành điểm tham quan du lịch.
Khi đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ta có thể tham quan các chợ nổi nổi tiếng như: chợ nổi Cái Bè nằm ở đoạn sông Tiền giáp giữa 3 tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long và Bến Tre, chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang), chợ nổi Châu Đốc (An Giang), chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ)... chợ nổi Cái Răng là chợ nổi tiếng nhất Việt Nam hiện nay.
Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ)
- Nước nóng, suối khoáng: Kim Bôi (Hoà Bình), Mỹ Lâm (Hà Giang), Quang Hanh (Ninh Bình), Suối Bang (Quảng Bình), Hội Vân (Bình Định), Vĩnh Hảo (Bình Thuận), Bình Châu (Bà Rịa – Vũng Tàu).
	4. Tài nguyên sinh vật:
Nước ta có hệ sinh thái nhiệt đới ẩm gió mùa, phong phú đa dạngcó ý nghĩa cao đối với hoạt động du lịch, đặc biệt là hoạt động du lịch sinh thái, có ý nghĩa nhất như: vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển. 
4.1. Vườn quốc gia: 
	Các vườn quốc gia: Bái Tử Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Hoàng Liên (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Xuân Sơn (Phú Thọ), Ba Vì (Hà Nội), Ba Bể (Bắc Can), Cúc Phương (Ninh Bình), Bến En (Thanh Hoá), Pù Mát (Nghệ An), Vũ Quang (Hà Tĩnh), Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình), Bạch Mã (Thừa Thiên- Huế), Chư Mom Ray (Kon Tum), Y oóc Đôn (Đắc Lắc) Chư Yang Sin (Đắc Nông), Bù Gia Mập, Cát Tiên (Bình Phước), U Minh Thượng, Đất Mũi (Cà Mau).
a) Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình)
	Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập ngày 7/7/1962, thuộc địa phận ba tỉnh Ninh Bình, Hoà Bình, Thanh Hoá có tổng diện tích 22 400 ha, với các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, sự đa dạng về hệ sinh thái, các giá trị văn hoá, lịch sử nên từ lâu Cúc Phương đã trở thành điểm du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn.
	Sự đa dạng sinh học của vườn quốc gia Cúc Phương: với đặc trưng là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm Cúc Phương có quần thể động, thực vật vô cùng phong phú và đa dạng.
Về thực vật: có tới 2234 loài thực vật bậc cao và rêu, trong đó có những cây đại thụ như: chò xanh, đăng, xấu... có những cây dây leo thân gỗ uốn lượn như những con mãng xà chạy dài mấy trăm mét giữa các tầng rừng, các nhà khoa học đã phát hiện thêm 12 loài thực vật mới, trong đó có một số chi và loài lan rất hiếm, có 433 loài cây làm thuốc, 229 loài cây ăn được, nhiều loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam. 
Về động vật có 122 loài bò sát và lưỡng cư, 66 loài cá, gần 2000 loài côn trùng, 135 loài thú (trong đó có loài vượn đen mông trắng là loài thú linh trưởng rất đẹp và quý hiếm được chọn làm biểu tượng của vườn quốc gia Cúc Phương), 336 loài chim cư trú, đặc biệt có nhiều loài đặc hữu của Việt Nam và Đông Dương.
b) Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình)
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng nằm ở hai huyện Bố Trạch và Minh Hoá tỉnh Quảng Bình, diện tích 85754 ha, được công nhận là di sản thiên nhiên thế giớivào tháng 7/2003, không chỉ có giá trị về mặt địa chất, địa mạo mà còn có giá trị đa dạng sinh học có tầm quan trọng toàn cầu, được đánh giá là một trong 200 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới. Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng có thảm rừng độc nhất, không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào trên Trái Đất, là rừng nhiệt đới thường xanh, chủ yếu là rừng lá kim phân bố trên núi đá vôi ở độ cao 800 – 1000m, ngoài ra vườn quốc gia còn có một số kiểu rừng đã được xác định, trong đó có các kiểu sinh cảnh có tầm quan trọng quốc tế là kiểu rừng thường xanh trên núi đá vôi.
Các sinh vật tự nhiên rất đa dạng, hiện nay có 2651 loài thực vật bậc cao, 735 loài động vật có xương sống, 809 loài côn trùng, chúng hầu hết là các loài bản địa tự nhiên trong khu vực, trong số đó có tới 116 loài thực vật và 129 loài động vật được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Có các loài linh trưởng đặc hữu của dãy Trường Sơn là voọc, vượn.
Với diện tích núi đá vôi và thảm thực vật rừng nguyên sinh rộng lớn, của vườn quốc gia rất đa dạng nhiều ở Việt Nam với 46 loài.
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là nơi sinh sống tự nhiên quan trọng của nhiều loài động vật, thực vật quý hiếm đang bị đe doạ và có ý nghĩa nhất đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học. 
4.2. Các khu dự trữ sinh quyển thế giới: 
Cát Bà, khu đất ngập mặn đồng bằng sông Hồng, tây Nghệ An, nam Cát Tiên, rừng ngập mặn Cần Giờ, Cù Lao Chàm, Đất Mũi, khu biển Kiên Giang.
* Cát Bà:
Cát Bà là một bán đảo đẹp và thơ mộng, nằm ở độ cao trung bình 70m so với mực nước biển. Trên đảo có thị trấn Cát Bà và 6 xã: Gia Luân, Trân Châu, Việt Hải ... cư dân chủ yếu là người Việt.
 Trên đảo chính có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi. Là một nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái, phia đông nam của đảo có vịnh Lan Hạ, phía tây nam của đảo có vịnh Cát Gia, có một số bãi cát nhỏ, sóng không lớn, thuận tiện cho phát triển, du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự như vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ cũng có nhiều bãi tắm đẹp. 
Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong cỏ biển, hệ thống hang động ... là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, đảm bảo các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO.
	Cát Bà được UNESCO.công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02/12/2004.
 	II. Tài nguyên du lịch nhân văn:
1. Di sản văn hoá – lịch sử:
 	Đây là các tài nguyên có giá trị hàng đầu để phát triển du lịch gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của nhân dân ta. Cả nước có khoảng 4 vạn di tích, trong đó có khoảng 3000 di tích được Nhà nước xếp hạng. Tiêu biểu nhất là các di sản văn hoá của nhân loại: cố đô Huế (Thừa Thiên – Huế), phố cổ Hội An và di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam)...
1.1 Cố đô Huế (Thừa Thiên – Huế)
	Quần thể di tích cố đô Huế là một bằng chứng của quyền lực phong kiến Việt Nam trước đây. Trong gần 400 năm (1558 -1945) Huế đã từng là thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở đàng trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. 
Nằm giữa lòng thành phố Huế, bên bờ Bắc của sông Hương chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn, đó là kinh thành Huế, hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế
a) Kinh thành Huế:
	Được vua Gia Long cho tiến hành khảo sát năm 1803, khởi công xây dựng từ năm 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Các di tích trong kinh thành gồm:
 - Kỳ đài: còn gọi là cột cờ, nằm chính giữa mặt Nam của kinh thành Huế thuộc pham vi pháo đài Nam chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ đài được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807), cùng thời gian xây dựng kinh thành Huế.
 - Trường Quốc Tử Giám: Năm 1803 vua Gia Long cho xây dựng Đốc học đường tại địa phận xã An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế 5km về phía Tây. Trường nằm cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương, đây được xem là trường quốc học đầu tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Đến năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong kinh thành, bên ngoài phía đông nam Hoàng thành. 
 - Điện Long An: được xây dựng năm 1845 thời vua Thiệu Trị trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc, là nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành làm lễ Tịch diền (cày ruộng) vào mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu trị thường hay lui tới nghỉ ngơi, đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh.
 - Bảo tàng mĩ thuật cung đình Huế: Toà nhà chính của viện bảo tàng chính là điện Long An. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sứ, sành, trang phục nhà Nguyễn. Bảo tàng mĩ thuật cung đình Huế giúp người tham quan có một cánh nhìn tổng thể về cuộc sống của cung đình Huế.
 - Viện cơ mật (Tam Hoà): là cơ quan tư vấn của nhà vua gồm 4 vị đại thần từ Tam phẩm trở lên, đại học sĩ của các điện Đông Các, Văn Minh, Võ Huấn, Cần Chánh, hiện nay là trụ sở của trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
 - Cửu vi thần công: là tên gọi 9 khẩu thần công do các nghệ nhân Huế đúc dưới thời vua Gia Long. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, khi lên ngôi vua Gia Long liền cho các nghệ nhân đương thời tập trung tất cả chiến lợi phẩm, binh khí, vật dụng bằng đồng để đúc thành 9 khẩu thần công làm vật chứng cho chiến thắng vẻ vang của mình. Việc đúc chính thức từ năm 1803 và hoàn thành năm 1804. 
 - Hoàng thành Huế: nằm bên trong kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên của nhà Nguyễn, bảo vệ Tử cấm thành, nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng thành và Tử cấm thành thường được gọi là Đại Nội.
* Các di tích trong Hoàng thành gồm:
	+ Ngọ Môn: là cổng chính giữa phía Nam của Hoàng thành Huế được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Ngọ Môn có nghĩa là cổng giứa trưa, hay cổng xoay về hướng Ngọ, là cổng lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế. Về mặt từ nguyên học “Ngọ Môn” có nghĩa là cổng xoay mặt về hướng Ngọ, cũng chính là hướng Nam, theo dịch học là hướng dành cho vua chúa.
	+ Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi: Điện Thái Hoà là cung điện nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế, điện cùng với sân chầu là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghị quan trọng của triều đình như: lễ dăng quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức, các buổi đại triều được tổ chức hai lần ngày 1 và 15 âm lịch hàng tháng.
 	+ Cửu đỉnh: Cửu đỉnh nhà Nguyễn là 9 cái đỉnh bằng đồng đặt dưới Hiển Lâm Các đối diện với Thế Miếu, tất cả được đúc ở Huế cuối năm 1835, hoàn thành năm 1837. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một vị hoàng đế của triều Nguyễn, chúng có trọng lượng khác nhau và hình chạm khắc bên ngoài đỉnh cũng khác nhau, 9 đỉnh là: Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Chung đỉnh, Anh đỉnh, Nghị đỉnh, Thuần đỉnh, Tuyên đỉnh, Dụ đỉnh, Huyền đỉnh.
	+ Tử Cấm Thành: Tử Cấm Thành nguyên gọi là Cung Thành, là vòng tường thành thứ 3 của kinh thành Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở, sinh 
hoạt của vua và hoàng gia.
	+ Điện Cẩm Chánh: trong Tử Cấm Thành được xây dựng năm Gia Long thứ 3 (1804), điện là nơi vua thiết triều, thường tiếp sứ bộ ngoại giao, tổ chức yến tiệc hoàng gia và triều đình, hiện nay trở thành phế tích do bị phá huỷ từ năm 1947. 
b) Các di tích ngoài kinh thành:
* Lăng tẩm:
 	Lăng Gia Long: được xây dựng năm từ năm 1814 đến năm 1820, là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyền. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất.
* Các di tích khác: Trấn Bình Đa, Phu Văn Lâu, Toà Thượng Bạc, Văn Miếu, Võ Miếu, Đàn Nam Giao, chùa Thiên Mụ ...
 - Đàn Nam Giao: được xây dựng năm 1803, đặt tại làng An Ninh thời vua Gia Long. Năm 1806 đàn được dời về phía Nam của kinh thành Huế, trên một quả đồi lớn thuộc làng Dương Xuân, nay thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế, đây là nơi các vua chúa Nguyễn tế trời.
 - Chùa Thiên Mụ: là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây, chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm 1601, thời chúa Nguyễn Hoàng, vị chúa đầu tiên ở đàng trong, đây là ngôi chùa cổ nhất của Huế.
1.2. Phố cổ Hội An:
- Đô thị cổ Hội An (Quảng Nam) nằm cách thành phố Đà Nẵng 30 km về phía Đông Nam.
- Từ cuối thế kỉ XVI, Hội An từng là trung tâm mậu dịch quốc tế trên hành trình thương mại Đông Tây, là một thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong trong triều đại các chúa Nguyễn.
- Khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc cổ, gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng, cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ ... Những con đường phố hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ, cảnh quan phố phường Hội An bao quanh một màu rêu phong cổ kính như một bức tra

Tài liệu đính kèm:

  • docOn_HSG_Dia_chuyen_de_Tai_nguyen_du_lich_VN.doc