PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH YÊN TRƯỜNG THCS LIÊN BẢO CHUYÊN ĐỀ: HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIỎI CÁCH HỌC VÀ LÀM BÀI THI MÔN ĐỊA LÍ LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS Người thực hiện: Trần Thị Hương Giang Đơn vị công tác: Tổ Văn - Sử Trường THCS Liên Bảo - Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc Vĩnh yên, tháng 11 năm 2015 Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay, giáo dục luôn được coi là “Quốc sách hàng đầu”. vì vậy, để giáo dục đạt kết quả tốt, trong những năm gần đây Đảng và nhà nước ta đã thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông cả về nội dung và phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Giáo trình đã được thực hiện hơn 10 năm qua và bước đầu đã có kết quả tích cực. Một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí là bồi dưỡng và nâng cao chất lượng học sinh giỏi. Là một giáo viên trực tiếp bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi trong nhiều năm qua bản thân tôi nhận thấy rằng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi hiện nay còn nhiều bất cập, số lượng giải ít và chất lượng giải không cao bằng các bộ môn khác. Đây là điều trăn trở của những người làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, hầu như đội ngũ dạy bồi dưỡng chưa tiếp cận với cách ra đề của phòng khảo thí kiểm định chất lượng của Sở GD - ĐT. Dạy bám sát, chuyên sâu là một yêu cầu bức thiết đáp ứng cho yêu cầu thi học sinh giỏi cấp thành phố và cấp tỉnh, vì vậy bản thân tôi quyết định chọn đây làm đề tài nghiên cứu cho mình. Điểm khác của học sinh (HS) giỏi với học sinh bình thường là ở chỗ HS giỏi nắm kiến thức cơ bản địa lí vững chắc và toàn diện hơn, có kĩ năng địa lí hoàn thiện hơn và đặc biệt là có tư duy địa lí linh hoạt và sâu sắc hơn. Ở mức độ cao hơn nữa, HS giỏi là những người có khả năng sáng tạo, nghĩa là khả năng tìm ra cái mới, cách giải quyết mới. Như vậy, để trở thành HS giỏi nói chung và HS giỏi địa lí nói riêng, cần phải rèn luyện trên cả ba phương diện : kiến thức, kĩ năng địa lí và kĩ năng tư duy. A. MỘT SỐ YÊU CẦU TRONG HỌC TẬP ĐỐI VỚI HỌC SINH GIỎI ĐỊA LÍ 1. Kiến thức Kiến thức địa lí cấp THCS chủ yếu là địa lí Việt Nam bao gồm cả địa lí tự nhiên và kinh tế - xã hội. Chương trình địa lí THCS yêu cầu HS phải nắm vững một số kiến thức phổ thông, cơ bản, mang tính hệ thống. - Ngoài các kiến thức cơ bản trên, trong sách giáo khoa còn trình bày về các sự vật hiện tượng địa lí cụ thể, các biểu tượng địa lí,... Các kiến thức này đóng vai trò hoặc để cụ thể hoá các kiến thức cơ bản trên, hoặc là cơ sở để rút ra các kiến thức khái quát. Kiến thức địa lí phổ thông mà HS cần nắm, được chia thành 6 mức độ : - Biết: Ghi nhớ được các sự kiện, khái niệm, định nghĩa, hệ quả, thuật ngữ và các nguyên lí dưới hình thức được học. - Hiểu: Hiểu được kí hiệu, ý nghĩa và mối liên hệ trong khái niệm, định lí, hệ quả, công thức,... Có khả năng diễn giải, mô tả, tóm tắt thông tin đã thu được, không nhất thiết phải liên hệ tư liệu này với tư liệu khác. - Vận dụng: Sử dụng thông tin trong các tình huống khác với tình huống đã học; khái quát hoá, trừu tượng hoá những kiến thức đã biết. - Phân tích: Biết cách tách tổng thể thành các bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các bộ phận đó với nhau trong cùng một cấu trúc. - Tổng hợp: Biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng thể cũ. Cần có khả năng phân tích để đi đến tổng hợp. Ở đây bắt đầu thể hiện sự sáng tạo của cá nhân. - Đánh giá: Đòi hỏi có những hành động so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định trên cơ sở các tiêu chí và tính hợp lí. Cần có khả năng tổng hợp để đánh giá. 2. Kĩ năng địa lí a) Học Địa lí ở THCS, HS cần phải củng cố và phát triển các kĩ năng: - Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá các sự vật, hiện tượng địa lí; sử dụng bản đồ, biểu đồ, đồ thị, lát cắt, số liệu thống kê,... - Thu thập, xử lí, trình bày các thông tin địa lí. - Vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng, sự vật địa lí và giải quyết một số vấn đề của cuộc sống, sản xuất gần gũi với HS trên cơ sở tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán. b) Kĩ năng địa lí trong nhà trường THCS được chia ra 5 mức độ: - Bắt chước: Quan sát và cố gắng lặp lại một kĩ năng nào đó. - Thao tác: Hoàn thành một kĩ năng nào đó theo chỉ dẫn hơn là bắt chước máy móc. - Chuẩn hoá: Lặp lại một kĩ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn và thường được thực hiện một cách độc lập, không phải hướng dẫn. - Phối hợp: Kết hợp nhiều kĩ năng theo một trật tự, một cách nhịp nhàng và ổn định. - Tự động hoá: Hoàn thành một hay nhiều kĩ năng một cách dễ dàng và trở thành tự động, không đòi hỏi một sự cố gắng về thể lực và trí tuệ. HS giỏi cần phải đạt được các mức độ 4 và 5 của kĩ năng. Nhờ vậy, các em mới có thể sử dụng các kĩ năng này để tự học, tự nghiên cứu, tìm ra những kiến thức cần nắm, hoặc vận dụng các kiến thức vào thực tế cuộc sống để giải quyết các vấn đề thực tế. - Các kĩ năng sẽ có được một cách vững chắc nhờ vào việc luyện tập thường xuyên và có kết quả trên cơ sở những hiểu biết cần thiết về kĩ năng. 3. Tư duy - Trong học tập hiện nay, tư duy cần có ở HS là tư duy lôgic bao gồm: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá. Nếu sử dụng các thao tác tư duy này một cách linh hoạt, thì sẽ đưa đến các kết quả thích hợp. Do vậy trong quá trình học tập cũng như ôn luyện thi HS giỏi địa lí cần phải chú trọng rèn luyện các thao tác tư duy này. B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỌC TẬP HIỆU QUẢ TRONG ÔN THI HSG MÔN ĐỊA LÍ. 1. Nhớ kiến thức một cách lôgic Muốn có tư duy lôgic, phải có một hệ thống kiến thức nhất định. Một số nghiên cứu của các nhà khoa học sư phạm trên thế giới chỉ ra rằng, sở dĩ trong môn Địa lí, HS THCS hiện nay có tư duy không tốt là do thiếu những kiến thức cần thiết, trong đó đặc biệt là hệ thống khái niệm địa lí. Việc nắm vững một hệ thống kiến thức địa lí cơ bản làm cơ sở cho tư duy, sẽ tạo cơ sở cho việc nắm những kiến thức địa lí mới. Kiến thức mới lại tiếp tục làm cơ sở cho tư duy để nhận thức được những kiến thức khác mới hơn... Hiện nay, một số HS có quan niệm rằng chỉ cần có tư duy tốt là đủ để nắm được các kiến thức cần thiết, hay nói cách khác, chỉ cần thông minh là thi được HS giỏi địa lí. Đó là một quan niệm không đúng. Cần nhớ rằng mục tiêu của việc học tập là vừa có được những kiến thức cơ bản, vừa phát triển được năng lực tư duy, muốn tư duy phải có kiến thức, không có đủ kiến thức cần thiết, như nói ở trên, không thể có tư duy địa lí được. Chính vì vậy, học để nắm chắc kiến thức là việc làm hết sức quan trọng. Nắm chắc kiến thức có nghĩa là hiểu được, nhớ lâu bền kiến thức địa lí cần thiết và có thể vận dụng được vào các trường hợp cụ thể. Để nhớ lâu bền, cần phải có trí nhớ lôgic. Muốn ghi nhớ lôgic, trong quá trình ghi nhớ phải hiểu và vận dụng được các quy luật của trí nhớ. a) Trí nhớ là hoạt động phản xạ có điều kiện. Muốn lập được phản xạ có điều kiện, thông tin phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Do vậy, trong ghi nhớ kiến thức, việc ôn tập thường xuyên tỏ ra hết sức cần thiết. Sau một số bài, sau một chương hoặc một số chương, cần phải ôn tập để tăng cường ghi nhớ. b) Nhớ lâu được dựa trên ấn tượng mạnh. Một kiến thức hay, một cách giải quyết vấn đề độc đáo, một lần bị sai lầm và nhận ra được,... là những ấn tượng khó quên, lưu lại lâu bền trong trí nhớ mỗi HS. Vì vậy, khi học bài địa lí, cần chú ý tạo ra các ấn tượng sâu về kiến thức. Các ấn tượng có thể bắt nguồn từ việc sử dụng phương tiện trực quan trong khi học bài (ví dụ khi học về các sự vật, hiện tượng địa lí nên sử dụng Atlát địa lí, hay bản đồ trong SGK, bản đồ treo tường; khi học về hình thái địa hình nên dựa vào lát cắt địa hình....), từ việc kết hợp nghe và nhìn (quan sát videoclip, băng hình địa lí...), từ việc làm (trao đổi, tranh luận với bạn; làm các bài thực hành, giải các bài tập địa lí...). Một kết quả nghiên cứu sư phạm đã chỉ ra: kiến thức được nhớ là nhờ 10% qua đọc, 20% qua nghe, 30% qua nhìn, 50% qua nghe và nhìn, 80% qua nói và 90% qua làm. Vì vậy, để tăng cường ghi nhớ, nên chọn các biện pháp học tập đề cao vai trò của trao đổi, thảo luận, thực hành, hoặc kết hợp nghe và nhìn, hỏi thầy và bạn về những điều chưa rõ... c) Nhớ lâu bắt nguồn từ hứng thú học tập: Nếu một HS đam mê với việc giải thích các hiện tượng địa lí, HS đó sẽ nhớ về các mối liên hệ nhân quả tốt hơn; nếu thích thú với các hiện tượng địa lí diễn ra xung quanh môi trường sống, HS đó quan tâm nhiều hơn đến việc quan sát thực tế và vận dụng kiến thức địa lí vào giải quyết những vấn đề đó... Như vậy, hứng thú có thể ví như một chất men kích thích việc học tập. Hứng thú học tập phải được tạo ra bằng thái độ, động lực học tập (ví dụ học giỏi để thi đạt kết quả cao) và được nuôi dưỡng suốt trong quá trình học tập. Mỗi khi gặp khó khăn, phải tìm cách giải quyết thích hợp để đạt được nguyện vọng chính đáng đã xác định ban đầu của bản thân. d) Kiến thức mới được ghi nhớ trong mối quan hệ với kiến thức đã có. Những kiến thức đã có làm cơ sở cho việc ghi nhớ các kiến thức mới cùng loại. Do đó, khi học kiến thức mới cần phải liên hệ với kiến thức đã có. Đồng thời, khi có được một kiến thức mới, cần phải xếp chúng vào hệ thống các kiến thức đã có một cách hợp lí. e) Ghi nhớ phải có tính hợp lí: đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Do vậy, trong quá trình học tập và luyện tập cần chú ý thực hiện những nhiệm vụ từ dễ đến khó. g) Tập trung chú ý sẽ làm tăng cường trí nhớ: Thường não bộ không tiếp thu thông tin hai loại cùng một lúc. Do vậy, khi học, phải tập trung tối đa vào việc học (nghe giảng, họăc trao đổi thảo luận về nội dung học tập, giải bài tập...). Học xong, mới tập trung vào việc khác. g) Những thông tin sau cản trở, góp phần xoá đi những thông tin trước cùng loại và liên tục. Đó là quy luật về ức chế tương đồng của trí nhớ. Do vậy, nếu vừa nghe giảng xong trên lớp, về nhà học bài ngay, không tốt bằng để sau 5 - 6 tiếng đồng hồ mới học lại bài trên lớp. Tuy nhiên, nếu khoảng thời gian đó để quá lâu (sau 11 - 12 tiếng đồng hồ chẳng hạn), sự ghi nhớ sẽ bị suy giảm rất nhiều. h) Thông tin đơn giản dễ nhớ hơn thông tin phức tạp: Vận dụng quy luật này của trí nhớ, trong học tập cần xác định các kiến thức cơ bản, hoặc các đề mục một cách gọn rõ để dễ nhớ. i) Khả năng não bộ trong ghi nhớ không phải là vô hạn: Trong học tập, cần biết chọn nhớ những thông tin có ích, biết quên đi những thông tin không cần thiết. Việc xác định những kiến thức cơ bản cần thiết khi học địa lí là việc làm cần thiết đối với mỗi HS giỏi. Có thể chỉ cần nhớ những kiến thức "chìa khoá", khi cần sẽ sử dụng nó để phát triển đến những kiến thức khác. 2. Rèn luyện kĩ năng tư duy Tư duy được biểu hiện bằng các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá). Để đánh giá một người có tư duy tốt hay không tốt thường dựa vào việc đánh giá khả năng của các thao tác tư duy. Do vậy, rèn luyện kĩ năng tư duy, chính là rèn luyện việc sử dụng các thao tác tư duy. a) Việc rèn luyện tư duy một cách thông dụng nhất trong thực tế học tập là dựa vào việc tự trả lời các câu hỏi: Ứng với mỗi thao tác tư duy có một loại câu hỏi tương ứng để tập trung rèn luyện thao tác tư duy đó. Trong ôn thi HSG địa lí hiện nay, HS nên rèn luyện kĩ năng tư duy theo các loại câu hỏi sau : + Câu hỏi phân tích: nhằm gợi ý HS tách riêng từng phần của sự vật và hiện tượng địa lí, hoặc các thành phần của mối liên hệ. Ví dụ: Phân tích những điều kiện để Đồng bằng sông Cửu Long thành vùng lương thực, thực phẩm hàng đầu của cả nước. Phân tích sự thay đổi về mối tương quan giữa xuất khẩu và nhập khẩu ở nước ta từ năm 1980 đến nay. + Câu hỏi tổng hợp: nhằm làm cho HS xác lập được tính thống nhất và mối liên hệ giữa các thuộc tính của các sự vật, bộ phận hay dấu hiệu của chúng. Câu hỏi tổng hợp không phải là tổng cộng đơn thuần các bộ phận của sự vật địa lí. Sự tổng hợp đúng sẽ là một hoạt động tư duy mang lại kết quả mới nhất về chất. Ví dụ: Chứng minh rằng nền công nghiệp nước ta có cơ cấu ngành khá đa dạng. Vị trí địa lí nước ta có những tác động như thế nào đến tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội? Chứng minh rằng, việc xây dựng các công trình thuỷ lợi có ý nghĩa hàng đầu để sử dụng hợp lí tài nguyên nông nghiệp của vùng Đông Nam Bộ. Chứng minh rằng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai trung tâm công nghiệp lớn nhất nước. Phân tích và tổng hợp là hai thao tác tư duy có liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau khi hình thành khái niệm. Những dấu hiệu bản chất của hiện tượng được phát hiện bằng cách phân tích hiện tượng đang nghiên cứu. Đạt tới bản chất của hiện tượng trong sự hoàn chỉnh và thống nhất là sản phẩm của tổng hợp. Do vậy câu hỏi phân tích và tổng hợp luôn luôn đi kèm với nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đôi lúc trong loại câu hỏi này có thành phần của loại câu hỏi kia tham gia. + Câu hỏi so sánh, liên hệ: nhằm liên hệ các sự vật và hiện tượng địa lí lại với nhau trong các mối quan hệ địa lí có thể có và thiết lập sự giống nhau, khác nhau giữa chúng. Ví dụ: Hai trung tâm công nghiệp lớn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có những điểm giống nhau như thế nào về cơ cấu ngành? Nêu những điểm giống nhau và khác nhau về hai vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm lớn nhất nước ta. Khi đặt câu hỏi so sánh, những đối tượng so sánh có thể có những nét tương đồng hay trái ngược nhau. + Câu hỏi nguyên nhân - kết quả: là loại câu hỏi nêu lên mối liên hệ nhân quả, một trong những dạng liên hệ có tính chất phổ biến trong bài địa lí. Ví dụ : Tại sao trong mùa hè ở nước ta vẫn phát triển được các sản phẩm nông nghiệp cận nhiệt và ôn đới? Tại sao ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm trở thành ngành công nghiệp trọng điểm của nước ta? + Câu hỏi khái quát hóa: là loại câu hỏi dùng để khái quát hóa các kiến thức cụ thể, nêu lên cái chính, cái căn bản, cái "chung", thường dùng vào cuối chương hay tổng quát cuối bài. Ví dụ: Hãy nêu các thế mạnh của vùng Đông Nam Bộ trong việc phát triển tổng hợp các ngành kinh tế? Tại sao ở Duyên hải miền Trung có khả năng kết hợp cơ cấu kinh tế nông - lâm – ngư? b) Khi đã có các kĩ năng tư duy tốt, HS sẽ có điều kiện vận dụng chúng một cách linh hoạt để trả lời các câu hỏi thi: Nên nhớ, câu hỏi thi địa lí không phải được nêu ra dưới dạng phân tích, tổng hợp hay trừu tượng hoá, khái quát hoá... đòi hỏi chỉ sử dụng một thao tác tư duy tương ứng. Câu hỏi thi buộc phải sử dụng nhiều thao tác tư duy một cách tổng hợp trên cơ sở vận dụng các tri thức địa lí đã có ở mỗi HS. Ví dụ: Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam, hãy so sánh hai vùng chuyên canh cây công nghiệp Đông Nam Bộ và Trung du - miền núi phía Bắc (Đề thi năm 2006); Dựa vào Atlát hãy trình bày và giải thích tình hình phân bố dân cư ở nước ta (Đề thi năm 2012) Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích sự phân hóa đa dạng của địa hình đồi núi nước ta. Độ cao đồi núi nước ta đã ảnh hưởng đến sự phân hóa khí hậu như thế nào? (Đề thi năm 2008) 3. Rèn luyện kĩ năng địa lí Có rất nhiều kĩ năng địa lí mà các giáo viên dạy đội tuyển cần bồi dưỡng cho HSG, tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này tôi xin phép chỉ tập trung vào ba kĩ năng được cho là “khó” đối với các em học sinh: a) Kĩ năng làm việc với Át lát địa lí Việt Nam: - Câu hỏi yêu cầu sử dụng Atlát Địa lí Việt Nam trở thành phổ biến trong tất cả các đề thi HS giỏi từ trước đến nay. Để khai thác kiến thức từ Atlát, yêu cầu HS phải sử dụng tổng hợp cả kiến thức và kĩ năng địa lí, đồng thời phải sử dụng kĩ năng tư duy, trong nhiều trường hợp còn cần đến óc sáng tạo. Do vậy, trong nhiều đề thi HS giỏi có đến 2 câu hỏi yêu cầu làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam. - Thông thường câu hỏi gắn với Atlát có dạng "Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học....". Ví dụ: + Dựa vào Át lát địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy: a. Nhận xét sự phân bố dân cư ở nước ta. b. Chứng minh các dân tộc ít người ở trung du miền núi Bắc Bộ vừa phân bố theo khu vực, vừa phân bố theo độ cao? + Dựa vào Át lát địa lí Việt Nam và kiến thức đã học hãy: Kể tên các ngành công nghiệp trọng điểm ở nước ta. Chứng minh công nghiệp điện ở nước ta là ngành công nghiệp trọng điểm. Sự khác biệt giữa nguồn nhiên liệu sản xuất nhiệt điện ở miền Bắc và miền Nam là gì? Với những câu hỏi kiểu này, nhiều thí sinh chỉ dựa vào một trong hai cơ sở trên (hoặc là riêng Atlát, hoặc riêng kiến thức đã học) để làm bài. Việc làm đó không cho phép trình bày kiến thức một cách đầy đủ. Nếu chỉ dựa vào kiến thức đã học, nhiều kiến thức từ Atlát bị bỏ sót, đặc biệt là các kiến thức về sự phân bố cụ thể, mối quan hệ về mặt không gian lãnh thổ của các sự vật, hiện tượng địa lí.... Nhưng nếu chỉ dựa vào Atlát địa lí, nhiều kiến thức như tình hình phát triển, nguyên nhân phát triển, về đường lối, chính sách, kinh nghiệm và truyền thống sản xuất của dân cư... không được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lí. Kinh nghiệm ôn luyện HS giỏi cho thấy, trong những trường hợp như vậy phải chú ý phân biệt các loại kiến thức có thể khai thác từ Atlát địa lí, các loại kiến thức không thể hoặc rất khó thể hiện rõ trên Atlát, phải khai thác từ vốn kiến thức đã có của bản thân. Trong mỗi ý trình bày của bài làm, cần kết hợp hai loại kiến thức này với nhau một cách thích hợp. - Để khai thác các kiến thức địa lí theo những chủ điểm trên, cần lưu ý kĩ thuật sử dụng các trang của Atlát Địa lí Việt Nam: + Sử dụng trang mở đầu của Atlát Địa lí Việt Nam: HS cần hiểu được ý nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của Atlat; nắm chắc kí hiệu chung ở trang mở đầu. + Sử dụng các trang bản đồ của Atlat Địa lí Việt Nam: Làm việc với các trang của Atlát, HS phải xác định được vị trí địa lí, giới hạn của lãnh thổ, vùng kinh tế; nêu đặc điểm của các đối tượng địa lí (đất, khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, dân cư, dân tộc); trình bày sự phân bố các đối tượng địa lí, như: khoáng sản, đất đai, địa hình, dân cư, trung tâm công nghiệp, mạng lưới giao thông, đô thị,...; giải thích sự phân bố các đối tượng địa lí; phân tích mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí, phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên với nhau (khí hậu và sông ngòi, đất và sinh vật, cấu trúc địa chất và địa hình,...), giữa các yếu tố tự nhiên và kinh tế, dân cư và kinh tế, kinh tế và kinh tế, tự nhiên - dân cư và kinh tế,... đánh giá các nguồn lực phát triển ngành và vùng kinh tế; trình bày tiềm năng, hiện trạng và hướng phát triển của một ngành, lãnh thổ; phân tích mối quan hệ giữa các ngành và các lãnh thổ kinh tế với nhau; so sánh các vùng kinh tế về các mặt; trình bày tổng hợp các đặc điểm của một lãnh thổ. - Dàn ý của mỗi thành phần, yếu tố, hay miền, vùng địa lí trên là cơ sở để ôn luyện kiến thức địa lí thi HS giỏi gắn với việc sử dụng Atlát để tránh bỏ sót ý. Trong khi làm bài, tuỳ theo yêu cầu của câu hỏi, xác định các kiến thức nào cần khai thác, kiến thức nào không cần trình bày hoặc không cần đi sâu phân tích vì không phải là trọng tâm của đề bài. - Làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam, cũng cần chú ý đến việc phân tích các lát cắt, biểu đồ, số liệu... trong các trang Atlát. Đó là các thành phần bổ trợ làm rõ nội dung trang Atlát, hoặc bổ sung cho nội dung tờ bản đồ mà Atlát không thể trình bày rõ được. Ví dụ, ở trang bản đồ Nông nghiệp, khi trình bày về cây công nghiệp, tờ bản đồ chỉ thể hiện được các cây công nghiệp, các vùng chuyên canh cây công nghiệp. Muốn hiểu được tỉ lệ diện tích gieo trồng cây công nghiệp so với tổng diện tích gieo trồng đã sử dụng và diện tích trồng cây công nghiệp thì phải sử dụng các số liệu được trình bày kèm theo trang bản đồ. Hoặc, trên tờ bản đồ Các miền tự nhiên, để biết được một cách trực quan và cụ thể hướng nghiêng và hình thái địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, ngoài quan sát trên bản đồ, còn phải đi sâu phân tích hai lát cắt địa hình được trình bày kèm theo tờ bản đồ. Rèn luyện được kĩ năng đọc Atlát một cách hoàn thiện, HS có nhiều khả năng đạt kết quả cao trong các kì thi HS giỏi hiện nay. b) Kĩ năng phân tích và nhận xét bảng số liệu thống kê : - Trong đề thi HS giỏi câu hỏi yê
Tài liệu đính kèm: