TỔ 3: NGUYỄN BÍNH VÀ BÀI THƠ “TƯƠNG TƯ”. I- TÁC GIA NGUYỄN BÍNH: Cuộc đời: Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Nhà thơ sinh vào cuối xuân đầu hạ năm Mậu ngọ (1918) trong một gia đình nhà nho nghèo tại xóm Trạm, thôn Thiện Vinh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thuở bé Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà chỉ học ở nhà với cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bình, sau được cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy. Nguyễn Bính là người có năng khiếu. Ông bắt đầu làm thơ từ lúc 13 tuổi, năm 1932 Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và từ đây bắt đầu nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác văn học. Ông được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn với tập thơ “ Tâm hồn tôi”(1940). Năm 1943 Nguyễn Bính được giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ “ Cây đàn tì bà”. Năm 1947 Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Nhà thơ hăng hái tham gia mọi công tác và được giữ những trách nhiệm trọng yếu như phụ trách hội văn hoá cứu quốc tỉnh Rạch Giá, phó chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh ở tỉnh Rạch Giá, sau làm ở ban văn nghệ thuộc phòng tuyên huấn quân khu tám. Thời gian này Nguyễn Bính sáng tác khá kịp thời và đều đặn, cổ động tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng giết giặc lập công. Tháng 11 - 1954 Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông công tác ở hội nhà văn Việt Nam. Năm 1956 ông làm chủ bút tuần báo “ Trăm hoa” và đã cho đăng báo một số bài viết. Năm 1958 Nguyễn Bính về cư trú tại Nam Định, ông công tác tại ty văn hoá thông tin Nam Định. Ông đã góp phần vào sự trưởng thành của phong trào sáng tác văn nghệ của quê hương và thơ ông vẫn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như của cả nước. Mùa thu năm 1965, ông theo cơ quan văn hoá Nam Định sơ tán vào huyện Lý Nhân. Nguyễn Bính mất đột ngột vào sáng 30 Tết năm Ất Tỵ (20 - 01 - 1966 ) lúc đến thăm một người bạn ở xã Hoà Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, khi ông chưa kịp sang tuổi 49. Ông vừa hoàn thành và cho in bài thơ “Quê hương”, một bài thơ có những nét báo hiệu của một giai đoạn mới trong đời thơ ông. 2. Sự nghiệp văn chương: a) Phong cách nghệ thuật: - Nhờ bản sắc riêng của làng quê, thơ Nguyễn Bính tài hoa nhưng duyên dáng, trinh bạch và đáng yêu như một “cô gái quê”. Thơ Nguyễn Bính không có cái hào hoa lãng tử của Thế Lữ, cái bay bổng háo hức của Xuân Diệu, cái vẻ kì bí của Chế Lan Viên, cái điên rồ vật vã của Hàn Mặc Tử. Thơ Nguyễn Bính chỉ mang nặng mối tình đằm thắm với xứ quê, người quê và chứa chất muôn vàn tâm sự của một đời thi sĩ lang bạt kì hồ đầy khổ đau, đắng cay và thất vọng. Toàn bộ thơ Nguyễn Bính là những áng văn chương tuyệt đẹp, là tiếng nói của một tâm hồn yêu quá tha thiết và tình cảm quá đầy, đến nỗi không còn dành một góc đáng kể nào cho tư tưởng và lí trí. - Thơ Nguyễn Bính mang nhiều hơi hướng và giọng điệu của ca dao, nhưng Nguyễn Bính không làm ca dao như Tản Đà trước đó. Nguyễn Bính đã nâng ca dao là thứ văn học "chưa thành văn" thành thứ văn chương thành văn đích thực. Bằng giọng điệu ca dao ấy, Nguyễn Bính nói về cuộc sống, con người hiện đại, nói về cái "Tôi", về những số phận cụ thể: một cô gái quê thắc thỏm mong đợi tình yêu, một chàng trai thất tình chỉ vì nghèo, một anh học trò mơ đỗ trạng, một mối tình đầy thơ mộng nhưng lại lỡ làng... -Chính vì thơ Nguyễn Bính chung đúc được cái Hồn dân tộc tự ngàn đời, nên nó đã tránh thoát được sự đào thải của thời gian, càng ngày càng trở nên quí giá và bất tử -Về nghệ thuật, thơ Nguyễn Bính là mẫu mực khó bắt chước của chủng loại thơ thuần cảm xúc: mỗi bài thơ vừa đọc lên lập tức ý và tình đi thẳng vào máu tủy của chúng ta và làm rung động từng tế bào nhỏ nhất. b) Các tác phẩm tiêu biểu: -Trong hơn 30 năm sáng tác với nhiều thể loại khác nhau (thơ, truyện thơ, kịch thơ, kịch bản chèo, lý luận sáng tác). Hoạt động văn nghệ của ông phong phú đa dạng song thành tựu xuất sắc độc giả ưa chuộng là thơ bởi thơ là mảng sáng tác kết tụ tài năng và tâm huyết của đời ông. Riêng về thơ có thể nói rằng ông là cây bút sung sức nhất của phong trào Thơ Mới. Chỉ trong một thời gian ngắn (1940-1945) Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập thơ có giá trị: “ Tâm hồn tôi” (1940); “Lỡ bước sang ngang” (1940); “Hương cố nhân” (1941); “Một nghìn cửa sổ” (1941); “Người con gái ở lầu hoa” (1942); “Mười hai bến nước” (1942); “Mây tần” (1942); “ Bóng giai nhân” (Kịch thơ - 1942); “Truyện tỳ bà” (Truyện thơ - 1944). Sau cách mạng, Nguyễn Bính lại cho ra mắt các tập thơ: “Ông lão mài gươm” (1947); “Đồng Tháp Mười” (1955); “Trả ta về” (1955); “Gửi người vợ miền Nam” (1955); “Trông bóng cờ bay” (1957); “Tiếng trống đêm xuân” (1958); “Tình nghĩa đôi ta” (1960); “Đêm sao sáng” (1962). Nhìn chung cuộc đời Nguyễn Bính tuy ngắn ngủi nhưng sự nghiệp sáng tác của ông rất phong phú và đa dạng. Mỗi chặng đường sáng tác của ông đều có vẻ riêng song sức mạnh và tâm huyết sáng tác của nhà thơ có lẽ dồn vào giai đoạn trước Cách mạng. Với lối viết giàu chất trữ tình dân gian, Nguyễn Bính đã tạo được một gương mặt riêng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm 2000 Nguyễn Bính đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. c) Những nhận định về tác gia Nguyễn Bính: - “Giá Nguyễn Bính sinh ra từ thời trước, tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm, và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu”. (Hoài Thanh) - “Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn Bĩnh vẫn là thi sĩ của chân quê, hồn quê”. (Tô Hoài) II- BÀI THƠ “TƯƠNG TƯ”: 1. Tìm hiểu chung về bài thơ: - Bài thơ Tương tư rút trong tập “Lỡ bước sang ngang”, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính. Qua chuyện tương tư, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ với quê hương, ở cái hồn quê mộc mạc thấm đẫm trong thi liệu, cảm xúc, ở cách thể hiện đậm phong vị dân gian. Âm điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ đều rất gần gũi với ca dao. - Nhan đề: "Tương tư" là nỗi nhớ nhau trong tình yêu đôi lứa. Tâm lí tương tư rất phức tap, không chỉ có nhớ nhung, thương cảm mà còn đẩy những ước ao, có cả hờn giận, trách móc. Vì vậy, khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều mà còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí cả những lời nói nút mẻ vòng vo, lấp lửng nữa. Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống động nhất của tình yêu. Ai đã yêu mà chẳng tương tư. Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê nhất của làng thơ mới cũng viết về tương tư. Nhưng qua việc diễn tả nỗi tương tư của một chàng trai, nhà thơ lại thể hiện tình cảm lớn hơn tình yêu đôi lứa. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hoá Việt Nam. - Bố cục bài thơ: 3 phần + Phần 1 (4 câu thơ đầu): khởi nguồn cho tâm trạng tương tư. + Phần 2 (12 câu tiếp theo): giãi bày tâm sự tương tư. + Phần 3 (4 câu cuối): ước mơ muôn đời của tình yêu đôi lứa. Phân tích bài thơ: Khởi nguồn cho tâm trạng tương tư: (4 câu đầu) Tâm lí của những kẻ đang yêu là luôn muốn được gần gũi bên nhau. Bởi vậy, một ngày không gặp dài bằng ba thu. Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư. Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư. Lịch sử tình yêu xưa nay đã ghi nhận bao trái tim Trương Chi tan nát bởi mối hận tình. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi. Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người”. Cũng như biết bao tâm hồn đã và đang tương tư khác, nỗi tương tư của chàng trai cũng được bắt đầu bằng sự mong nhớ. Nhưng kì lạ thay, tại sao ở đây lại là “thôn Đoài nhớ thôn Đông” mà không phải là ai đó nhớ một ai đó? Đơn giản bởi một lẽ, nỗi tương tư ấy đã thấm vào cả cảnh vật và lan toả khắp không gian, cũng như đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Việc sử dụng hình ảnh hai thôn để diễn tả thay cho hai cá thể đang yêu của Nguyễn Bính quả thật rất tinh tế, nó có thể hiện được một cái gì đó đậm đà thắm thiết qua tiếng “nhớ” mà cũng có gì đó e ấp, thẹn thùng chưa dám nói ra. Thêm vào đó, điệp từ “một người” được ngăn cách bằng “chín nhớ mười mong” vừa như một nhịp cầu mà cũng vừa như tấm bình phong ngăn trở của mối tình đậm đà buổi sơ khai này vậy. Từ đó, tác giả đi đến một kết luận, một sự đúc kết sâu sắc: “Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Tại sao lại là bệnh tương tư, tại sao lại phải nhờ vào “bệnh nắng mưa của trời “ để biện hộ cho mình? Trong xã hội cũ, và cả trong xã hội hiện đại, bệnh vì tình, bệnh tương tư đối với nam giới, là thứ bệnh khó được chấp nhận, vì nó chứng tỏ sự “yếu đuối nữ tính“. Một “trang nam nhi“ phải xông pha nơi chiến trường, coi cái chết nhẹ tưạ lông hồng:”gieo Thái Sơn nhẹ tưạ hồng mao“ (Chinh Phụ Ngâm ), phải có chí chọc trời khuấy nước“, nếu có chết thì “chết nơi chiến trường da ngược bọc thây “(Mã Viện), sao lại để cho tình yêu làm mềm yếu chí khí nam nhi. Nguyễn Bính cho rằng mưa gió là chuyện thường hằng cuả trời, thì tương tư cũng là cái thường hằng cuả con người. Tương tư là nhớ mong. Nhớ mong nhiều lắm “Một người chín nhớ mười mong một người.”, như thôn Đoài nhớ thôn Đông. Chẳng có gì sai trái, chẳng có gì là không đúng về đạo đức. Nhớ mong là tình cảm cuả con người như mọi thứ tình cảm khác, vì thế “tôi yêu nàng “ đến nỗi mang bệnh tương tư cũng là thường tình con người. Giải bày tâm sự tương tư: (12 câu tiếp) Chàng thanh niên như đang tự thanh min, rằng yêu nàng không phải là ý muốn chủ quan nào của tôi, không phải là tự tôi muốn có, bởi tôi tự đâu muốn tôi đau khổ đến thế mà mang căn bệnh đó vào người. Căn bệnh ấy vốn là tự nhiên mà có, tình yêu ấy vốn là tự nhiên mà đến, cũng như trời đâu có muốn gió mưa làm gì, chẳng qua đó là một quy luật mà đến trời cung phải chịu, không thể nào tránh được. Anh ta giãi bày tình yêu của mình mới thật khéo làm sao. Anh ta không là nguyên nhân của căn bệnh này, cho nên anh ta tự đi tìm nguyên cớ sao mình lại mắc căn bệnh tương tư. “Hai thôn chung lại một làng Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này Ngày qua ngày lại ngày ngày Lá xanh nhuộm đã thành hai lá vàng”. Hai câu đầu cứ như có một ý gì đó tự hỏi mà cũng có một ý gì đó hờn trách nhẹ nhàng. Gấn thế cơ mà, nhưng sao “bên ấy” chẳng sang chơi “bên này”, để cho bên này phải đợi mong mỏi mòn, phải “ra ngẩn vào ngơ”, phải tương tư khổ sở thế này, “Bên ấy” có biết cho “bên này” chăng? Sao cứ còn hờ hững mãi? “Ngày qua ngày lại qua ngày”, thời gian cứ thế trôi kéo theo sự nhớ mong dai dẳng trong tâm hồn của “bên này”. Lâu lắm rồi, chờ đợi đã bao ngày rồi, đến nỗi “lá xanh” kia cũng đã “nhuộm” vàng rồi “bên ấy” à! Đối với những tâm hồn đang yêu đương cháy bỏng thì một ngày hay thậm chí một giờ một khắc không gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm vậy. Sự vận động của thời gian được tác giả miêu tả bằng điệp ngữ “qua ngày” cùng tự “lại” ở đây đã cụ thể hóa thời gian, diễn tả được bước đi chậm chạp, nặng nề của thời gian dưới cái nhìn của một tâm trạng nóng lòng chờ đợi. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng hai sắc màu chủ đạo “xanh” và “vàng” cùng động từ “nhuộm” ở đây không chỉ diễn tả được sự vận động trong một quãng đường khá dài của thời gian mà còn cho thấy được tâm trạng héo mòn, khô úa vì đợi chờ của nhân vật trữ tình. Cái tâm trạng chờ mong, nóng lòng, bồn chồn đến “ra ngẩn vào ngơ” này cũng không hiếm gặp trong ca dao dân ca Việt Nam, ví như câu: “Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt” Cái trạng thái vô hồn của chủ nhân chiếc khăn trong bài ca dao kia cũng tương tư như tâm trạng của chàng trai quê trong “tương tư” vậy. Một tâm trạng bồn chồn như ngồi trên đống lửa khi một ngày không có em, một ngày không được nhìn thấy em dù chỉ trong một tích tắc. “Bảo rằng cách trở đò giang Không sang là chẳng đường sang đã đành”. Em ơi, nếu như hai ta phải ngăn cách nhau bởi sông dài, biển rộng, đi lại khó khăn thì đành vậy thôi em à! Nhưng em ơi đây chỉ cách có “một đầu đình”, “có xa xôi mấy mà tình xa xôi”? Lúc bấy giờ, chúng ta có thể cảm nhận được mộ sự hờn trách nhẹ nhàng, cái lối hờn mát trách yêu của một tâm hồn nhớ mong cháy bỏng. Vì rằng đường xa khó khăn nên em không sang hay cái bụng của em không muốn sang. Phải chăng ở bên thôn Đông ấy em có tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm hạnh phúc nào đó ấm áp hơn nên em đã quên mất một cây si, cây tương tư đang chờ em ở thôn Đòai mất rồi. “Tương tư thức mấy đêm rồi Biết cho ai, hỏi ai người biết cho”. Cũng vì nhớ mong, ôm ấp hình bóng ai kia mà em ơi đã bao đêm anh thức trắng. Nhựng có mấy ai biết cho mối tình đơn phương này, có ai hiểu cho con tim nồng cháy nơi anh nên anh đành phải ôm trọn một mối tương tư tận sâu vào trong tâm khảm. Tâm trạng chàng trai lúc bấy giờ dường như có gì đó bối rối và hụt hẫng. Một ngày không gặp thì nhớ mong, hai ngày không gặp thì bồn chồn, lo lắng, ba ngày không gặp thì hờn mát, trách yêu, rồi nhiều nhiều ngày nữa không gặp thì nỗi tương tư giờ đây đã chuyển sang một cung bậc cảm xúc cao hơn, phức tạp hơn: đó là sự buồn bã, không ăn, không ngủ, biểu hiện của một tâm hồn bị nỗi nhớ mong dày vò, dằn vặt. Biết khi nào đây? Khi nào “bến mới gặp đò”, “hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”. Đến đây, hệ thống những hình ảnh được tác giả sử dụng đã ngày một đa dạng và phong phú hơn cũng như tâm trạng chàng trai đang diễn biến ngày càng phức tạp và đa cung bậc hơn. Điểm lại tâm trạng ấy, ta có thể thấy rõ ràng một sự tăng tiến trong cảm xúc của nhân vật trữ tình: từ nhớ mong đến chờ đợi, bồn chồn rồi đến hờn trách và tự vấn bản thân để từ đó nâng lên một bậc nữa trong cảm xúc. Cũng là sự mong muốn nhưng đã không còn chỉ là nỗi mong muốn được gặp nhau mà giờ đây, chàng trai muốn được gắn kết, được giao hòa và được kết tóc se duyên cùng người “bên ấy” ở “thôn Đông”. “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng”. Nhắc đến trầu cau, chúng ta nhớ ngay đến cái đám cưới cổ truyền của dân tộc, nhớ ngay đến một sự khăng khít, gắn bó của lứa đôi và nhớ ngay đến sự chung thủy, gắn kết của hai tâm hồn đang hòa nhập làm một. Cách xưng hô của chàng trai ở đây cũng đã thay đổi, không còn là “thôn Đòai”, “thôn Đông” hay “bên ấy”, “bên này”, cũng không còn là “bến” – “đò” hay “hoa” – “bướm” mà đã trở thành “anh” và “em”. Điều đó thể hiện một khát khao gắn kết mãnh liệt, muốn cùng người mình yêu thương sống trọn đời trọn kiếp để tạo nên một cái kết có hậu và đẹp đẽ của mối duyên quê, tình yêu chất phác, đậm đà. Ước muốn muôn đời của tình yêu đôi lứa: (4 câu cuối) Những câu thơ cuối bài cất lên như một ước nguyện với cái kết viên mãn của một lễ vu quy giản dị nhưng lại hạnh phúc: “Nhà em có một giàn giầu Nhà anh có một hàng cau liên phòng Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện đến bên nhau của nhà thơ với người con gái mình yêu. Gian giầu kia cũng như đang chờ đợi hàng cau đến để làm nên những miếng trầu kết duyên vợ chồng. Từ nôi nhớ tương tư kia nhà thơ mong muốn được nên duyên vợ chồng với người con gái nọ. Miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu như gợi ta nhớ đến sự tích trầu cau trong truyện cổ tích. Chính sự tích ấy đã mang lại những miếng trầu thật ngon thấm đẫm tình vợ chồng. Nét quê hương hiện lên qua hình ảnh trầu cau ấy, lễ vật cho ngày cưới thiếu gì thì thiếu chứ không thể nào thiếu được trầu cau. Câu thơ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” một lần nữa lại được cất lên. Như vậy mở đầu bằng nỗi nhớ thì cuối cùng nhà thơ cũng kết thúc bằng một nỗi nhớ. Và câu thơ cuối lại như trách móc rằng không biết cau thôn Đoài hay chính là người con gái kia có nhớ đến mình không hay là nhớ đến người khác. Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư tình cảm của nhà thơ khi viết bài thơ này. Có thể nói chính những hình ảnh làng quê quen thuộc với những câu thơ mang đậm chất truyền thống dân tộc và mang hơi thở của ca dao nên bài thơ cứ thế đi vào lòng người với những giai điệu nhịp nhàng nhưng lôi cuốn. Nỗi tương tư được thể hiện rất kín đáo và thân thương. Cả bài thơ kết tụ của nỗi nhớ tương tư người yêu thế rồi cảm thấy người ta như đang vô tâm với mình vậy. III- T ỔNG K ẾT: Suốt bài thơ, chúng ta không khó để bắt gặp những hình ảnh đậm chất dân gian, đơn giản, mộc mạc mà có sức gợi tả, gợi cảm mạnh mẽ. Những hình ảnh ấy luôn song đôi với nhau: “thôn Đòai – thôn Đông”, “bến – đò”, “hoa – bướm”, “trầu – cau”, và ngày càng tăng tiến trong việc thể hiện sự giao hòa, gắn kết với nhau phù hợp với việc miêu tả tâm trạng tương tư diễn biến phức tạp của chàng trai. Cũng qua những hình ảnh đó mà phong cách thơ của Nguyễn Bính cũng được bộc lộ và làm rõ, một phong cách thơ đậm “hồn quê” và thiết tha với những giá trị cổ truyền của dân tộc đang dần dần mai một lúc bấy giờ. Đọc “Tương tư”, chúng ta như đọc mộ bài ca dao dài vậy, cũng những hình ảnh quá đổi bình dị và thân quen, cùng lối viết giản dị và mộc mạc, cũng thể lục bát dân gian cô đọng mà giàu sức gợi tả. Tẩt cả hòa quyện vào nhau tạo nên một hồn thơ, một phong cách thơ rất Nguyễn Bính. “Tương tư”, một thi phẩm xuất sắc có sức phổ cập rất lớn trong nhân dân. Bằng nét chung rất riêng và cũng là nét riêng rất chung của ngòi bút Nguyễn Bính, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, bình dị diễn biến của một tâm trạng tương tư: nhớ mong, bồn chồn, hờn giận, trách móc và khát khao giao hòa gắn kết. Từ đó bài thơ đã nâng lên, trở thành tinh hoa của văn học dân gian, thể hịên cái đẹp đẽ, đáng yêu của mối tình quê thắm thiết, bình dị. --------------&--------------
Tài liệu đính kèm: